LTS: Mới đây, Bộ Chính trị vừa có một nghị quyết về phát triển thành phố HCM đến năm 2020, theo đó, Thành phố được trao cơ chế đặc thù để phát triển với những quyền tự chủ, có tính độc lập tương đối, có tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm. Nhân dịp này, Tuần Việt Nam lật lại những câu chuyện, tìm lại những con người TP.HCM với những trăn trở, những quyết định và hành động đã tạo nên diện mạo TP.HCM hôm nay.
Dưới đây là phần nối tiếp của cuộc trò chuyện với TS. Trần Du Lịch, người từng giữ cương vị Viện trưởng Kinh tế Tp.HCM, và nay là Phó trưởng đoàn ĐBQH Thành phố.
– Ông có thể cho biết có những điều gì mà thành phố lẽ ra có thể làm được mà chưa làm được?
– TS Trần Du Lịch: Thành tích thì nhiều, mà tồn tại cũng không ít. Ví dụ, như công tác quy hoạch, chủ yếu là tầm nhìn và không gian đô thị, là một vấn đề lớn của thành phố.
Chẳng hạn, có một số khu mới, như Bầu Cát, hay Bình Thạnh, được làm với tầm nhìn thiển cận, từ hạ tầng giao thông đến hạ tầng xã hội không đồng bộ, mang lại một hình ảnh tệ hại về không gian sống. Lý do chính là thiếu kiểm soát xây dựng, dẫn đến vi phạm quy hoạch.
Hay trong quá trình phát triển kinh tế thành phố, những công trình thương mại – dịch vụ lại tập trung ở những nơi dễ gây ùn tắc giao thông. Chống ùn tắc giao thông bằng cái tầm nhìn quy hoạch kiểu như vậy thì cũng giống như anh chữa cháy mà bơm thêm dầu vào lửa. Nhu cầu của thị trường hoàn toàn để mặc thị trường điều tiết tự phát mà thiếu vai trò kiểm soát cần thiết của nhà nước.
Hoặc ví dụ như thành phố giải tỏa dọc bờ sông, nhưng một số khu đất mới, như khu vực Thảo Điền của quận 2, lại quy hoạch sát bờ sông, biến bờ sông thành của riêng.
TS. Trần Du Lịch
– Vậy ông đánh giá thế nào về thái độ của thành phố đối với những di sản về qui hoạch và kiến trúc của chế độ cũ, hay xa hơn là thời Pháp thuộc. Chẳng hạn, ở khu vực Nhà thờ Đức Bà, một quần thể khá đẹp về mặt kiến trúc, lại nổi lên toà nhà Diamond, nhìn từ quán cà phê Bean, trông rất lạc điệu, cả về hình khối lẫn màu sắc. Có người còn nói nó làm liên tưởng tới toà nhà Hàm Cá mập ở khu vực Hồ Gươm, Hà Nội.
– Thực sự khu đó không phải ví dụ điển hình về phá vỡ cảnh quan kiến trúc. Phá nhiều nhất và phá đầu tiên là khách sạn Caravelle. Việc cho phép đẩy cao toà nhà Caravelle lên đã nuốt luôn toàn bộ Nhà hát Thành phố.
– Có phải chính nhu cầu xây dựng rất lớn và trong thời gian rất ngắn của thành phố, với tư cách là khu vực hậu cần cho các tỉnh xung quanh phát triển, đã khiến thành phố HCM phải hứng chịu hậu quả đó không? Tức là công tác qui hoạch không theo kịp nhu cầu phát triển?
– Nói vậy cũng hơi quá. Vẫn có quy hoạch, nhưng kém về việc tuân thủ theo quy hoạch. Một điểm nữa do khách quan, áp lực nhập cư quá lớn. Thời tôi còn làm Viện trưởng Viện Kinh tế, thành phố cứ mỗi năm tăng thêm 200 nghìn dân.
– Thế chúng ta phải quay lại câu chuyện lúc đầu. Ban nãy ông nói thành công ở thành phố là làm được mười mấy khu công nghiệp, nhưng lại kéo theo nhân công từ các chỗ khác về, đúng không?
– Không, tôi chỉ nói liên quan đến chỗ đó, bên cạnh sự thành công của các khu công nghiệp, tư duy quy hoạch đã bị thiếu tầm nhìn. Phát triển khu công nghiệp như một ốc đảo mà không quy hoạch khu dân cư bên cạnh cho người lao động khu công nghiệp ở, đồng thời không gắn sự phát triển các loại hình dịch vụ đi theo. Từ chỗ đó, trong nhiều năm liền cứ cạnh khu công nghiệp hình thành các nhà trọ tự phát, nhếch nhác khủng khiếp, dẫn đến những áp lực về môi trường, và, nói chung, tất cả mọi thứ.
– Đến lúc nào thì lãnh đạo thành phố nhận ra sự bất cập đó?
– Thực sự, thành phố nhận ra từ lâu, cụ thể Đại hội 7 của thành phố, cuối năm 2000, đặt ra vấn đề tuân thủ quy hoạch và phát triển theo hướng đa trung tâm và tạo sự đồng bộ. Chẳng hạn, đề án xây dựng khu đô thị Thủ Thiêm, khu đô thị cảng Hiệp Phước, khu đô thị Tây Bắc…
Tuy nhiên, trong 10 năm vừa qua, do nhiều yếu tố khách quan, những công trình như vậy chưa mang lại kết quả rõ ràng.
– Những yếu tố khách quan là gì vậy?
– Ví dụ, làm khu Thủ Thiêm lại vướng công tác đền bù giải tỏa quá chậm, lúc nhà đầu tư muốn vào thì không có đất sạch. Khi bắt đầu có đất, bắt đầu xây lại hạ tầng, thì lại nổ ra khủng hoảng.
Hay khi xây dựng khu đô thị cảng Hiệp Phước, lại gắn liền với việc di dời cảng. Quá trình di dời cảng và xây dựng đô thị cũng chậm, nên chưa hình thành những khu dân cư lớn như vậy.
– Chẳng hạn, như nói về khu Thủ Thiêm, dường như có ý kiến quy hoạch lúc đầu đang bị xáo trộn lại?
– Không, thực sự việc quy hoạch tổng thể toàn bộ khu này do một công ty tư vấn của Mỹ làm, và khi thực thi không có gì thay đổi cả. Hiện nay, vấn đề là thực hiện chậm thôi, chứ không phải thay đổi qui hoạch.
Khách sạn Caravelle
– Vừa rồi, tôi có nói chuyện với nhà khảo cổ học và được nghe thông tin rằng đầu tiên dự kiến cho 20 héc ta đất để làm khu bảo tàng thành phố, sau rút lại còn 10 héc ta, và gần đây rút lại chỉ còn 1,8 héc ta. Người ta cảm giác có những tác động của nhóm lợi ích, chẳng hạn như các nhà kinh doanh bất động sản.
– Vấn đề ở đây là đừng nhìn Thủ Thiêm chỉ với 600-700 héc ta mà có thể phát triển một khu đô thị cả về khoa học, văn hóa. Nên phát triển các công trình khoa học, văn hoá ở quận 9, gắn liền với khu công nghệ cao và làng văn hóa các dân tộc quốc gia.
Thủ Thiêm, theo tôi, chỉ nên là cái lõi về tài chính – ngân hàng. Thực sự tỷ lệ đất thương mại đó chỉ chiếm 30% thôi, còn công trình công cộng là chính.
Ví dụ, ở đó có một quảng trường với sức chứa cho cả triệu người tham gia mít-tinh. Hay có một cái hồ lớn. Còn phía Nam làm toàn bộ một khu làm bề mặt cho thủy triều lên xuống.
Như vậy, các công trình văn hoá nên xây dựng ở quận 9 và hình thành khu đô thị tri thức ở đây.
– Thế tại sao hồi ấy nếu là khu tài chính – ngân hàng chẳng hạn, thì lại có khu phần mềm Nankang của Đài Loan?
– Thực sự tài chính – ngân hàng là khu lõi. Trung tâm phần mềm như một tòa nhà, một điểm nhấn về kiến trúc thôi mà. Bởi để làm công nghệ cao không tốn diện tích như khu công nghiệp. Chủ yếu ăn nhau ở ý tưởng thôi.
– Nghe nói ý tưởng xây dựng khu đô thị Thủ Thiêm còn có trước cả Phú Mỹ Hưng, mà sao triển khai lại chậm vậy?
– Không phải đâu. Thủ Thiêm mãi tới năm 1997 mới đưa ra phác thảo thôi, đến 2002 mới lập phương án đền bù giải tỏa. Nhưng từ đó trở đi, vấn đề giải tỏa mới khiến dự án bị kéo dài ra, mỗi lúc lại thay đổi chính sách, do sự khiếu kiện về đền bù giải toả kéo dài.
Còn Phú Mỹ Hưng làm nhanh hơn, vì tư nhân làm thành ra mọi thủ tục này nọ dễ dàng hơn. Còn Thủ Thiêm là lập một cơ quan quản lý nhà nước để làm nên thủ tục hành chính rất nhiêu khê: thuê tư vấn rồi phải duyệt kinh phí, mọi thứ bị chậm rồi mất cơ hội.
– Thế vì sao có một mô hình công ty tư nhân làm tốt như ở Phú Mỹ Hưng thì tại sao Thủ Thiêm không áp dụng?
– Không thể làm được vì Thủ Thiêm có chứa đến hàng chục ngàn hộ dân, khác với Phú Mỹ Hưng là đất sình lầy. Nếu giao cho tư nhân, người dân không bao giờ chấp nhận. Vì vậy, nhà nước phải đứng làm đô thị, đền bù giải tỏa cho đất. Thế mà còn làm không được, tư nhân làm sao nổi.
– Thế bây giờ quay lại câu chuyện từ năm 2000, khi nhận thấy áp lực về dân nhập cư lên hạ tầng thành phố rồi, thành phố có tiến hành điều chỉnh lại không? Chẳng hạn, khuyến khích di chuyển các nhà máy thuộc những ngành công nghiệp thâm dụng lao động, chuyển sang thu hút những ngành công nghệ cao.
– Bắt đầu tiến hành từ năm 2001, thành phố không nhận dự án FDI sử dụng nhiều lao động như may mặc, da giầy…, để giảm lao động phổ thông nhập cư. Khu vực tư nhân tập trung vào các khu công nghiệp, và thành phố đã di dời hoàn toàn những nhà máy xen lẫn với khu dân cư, chừng khoảng 1200 cơ sở, phải vào khu công nghiệp hết.
Giải quyết vấn đề đó là một vấn đề lớn của thành phố trong nhiều năm. Thành phố đã phải bỏ tiền ra hỗ trợ lãi suất các chủ doanh nghiệp đó di dời để đầu tư mới.
– Tôi muốn hỏi thế này: ODA đầu tiên sinh ra từ chỗ các nước phát triển. Vì sợ dòng nhập cư từ các nước chậm phát triển gây ra cấc bất ổn kinh tế – xã hội – môi trường, nên họ có những khoản viện trợ phát triển để tạo công ăn việc làm ngay tại chỗ, và góp phần ngăn chặn dòng di dân.
Nếu ta so sánh TP.HCM và những vùng kém phát triển khác trong nước, liệu thành phố có nên có hình thức hỗ trợ nào đó tương tự như ODA không? Ông vừa nói đến hỗ trợ di dời vào khu công nghiệp, nhưng mình cũng có thể hỗ trợ vốn để họ thành lập nhà máy ngay tại những địa phương khác. Chẳng hạn anh Quảng Nam thì về Quảng Nam lập nhà máy, rồi sử dụng nhân công ngay tại đó, tiện nhiều bề.
– Không, TP.HCM chưa thể làm được vai trò đó. Thành phố chỉ làm được thế này: ký hợp tác với hơn ba chục địa phương khác trong vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp thành phố đầu tư vào các tỉnh. Thành phố ý thức được vấn đề này, nhưng thực hiện còn hạn chế. Bởi, đơn giản, doanh nghiệp thấy chỗ nào có lợi thì họ làm, chứ mình đâu chọn được chỗ cho họ, mà mảnh đất này vẫn thực sự có một sức sống lớn.
Chẳng hạn, do giá thuê đất ở đây đắt, nên Công ty May Nhà bè mở nhà máy mới ở Bình Định, chứ không mở rộng ở thành phố. Có điều, họ vẫn làm thương mại ở đây. Tương tự như vậy đối với các doanh nghiệp da giầy, đồ gỗ.
Hướng của thành phố là ở đây làm trung tâm thời trang, trung tâm giao dịch mua bán, thương mại, xuất khẩu, còn nhà máy làm nơi khác.
– Thế còn chính sách ưu đãi đất đai cho các doanh nghiệp thuộc khu công nghiệp xây nhà ở cho công nhân? Nghe nói doanh nghiệp họ cũng đề xuất nhiều mà chưa được chấp thuận?
– Tôi xin quay lại câu chuyện cũ. Khi quy hoạch các khu công nghiệp, không còn những khu như vậy, vì thực ra không còn đất. Muốn lập khu công nghiệp phải giải tỏa các khu dân cư bên cạnh, vấn đề đền bù rất lớn, mà cũng chưa giải quyết được.
Giải pháp có một số nơi đã làm, như khu Vĩnh Hội, Vĩnh Lộc, hay khu Tân Tạo, người ta đã chỉnh lại qui hoạch, xén bớt một phần đất công nghiệp chưa cho thuê được để xây nhà ở cho công nhân.
Còn những khu nơi đã lấp đầy thì chịu. Đó cũng là hệ quả của tầm nhìn quy hoạch.
– Về dài hạn, những khu nhà trọ lụp xụp xuất hiện tự phát quanh các khu công nghiệp, như ông đã đề cập, theo ông, thành phố nên xử lý thế nào, dưới góc nhìn quy hoạch?
Chỉnh trang đô thị phải đi từng bước như vậy. Một số khu công nghiệp trong thành phố sẽ trở thành khu dịch vụ thương mại, khi hết vòng đời, theo giấy phép, của chúng. Thâm Quyến cũng làm như vậy.
Khi tôi đến Thâm Quyến đầu thập niên 1990, chỗ đó là khu công nghiệp. Nhưng sau 20 năm, khi tôi trở lại, ở đó khu công nghiệp không còn nữa, mà chuyển làm thứ khác rồi. Khi giá đất lên, thị trường sẽ tự điều chỉnh.
(Còn nữa)
Theo Vietnamnet