Marlon Brando – Kẻ nổi loạn vĩ đại - Tạp chí Đẹp

Marlon Brando – Kẻ nổi loạn vĩ đại

Giải Trí

Từ lâu, đời tư của những ngôi sao màn bạc đã trở thành đề tài yêu thích, nếu không muốn nói là chủ lực của giới truyền thông. Khi muốn đánh giá một diễn viên, ta đôi khi vẫn nhắc nhau rằng cần tách biệt, thậm chí là cô lập, sự nghiệp diễn xuất khỏi đời tư của người nghệ sĩ. Với Marlon Brando, điều ấy là bất khả.

Marlon Brando, biểu tượng của nam tính.

Nỗi hoài nghi bản thân và sự nghiệp thăng trầm

Marlon Brando, sinh năm 1924 ở Nebraska, là con trai duy nhất trong một gia đình có cha bán hàng và mẹ diễn viên. Bà Brando là một phụ nữ phá cách – hút thuốc, mặc quần dài và lái xe – những điều rất xa lạ với nữ giới đương thời. Có điều, bà lại nghiện rượu và thường xuyên trong tình trạng bất ổn tâm lý. Trong khi đó, di sản lớn nhất Brando cha lưu lại trong tiềm thức đứa con trai là câu nói “Mày rồi chẳng nên cơm cháo gì đâu!”

Nỗi hoài nghi năng lực bản thân được gieo mầm từ cha và tâm tính “nổi loạn” cùng thất bại trong việc chăm sóc gia đình của mẹ đã trở thành một hành trang đeo đẳng Marlon Brando suốt đời, từ khi ông đứng trên sân khấu Broadway, đến những năm tháng cuối cùng của một sự nghiệp điện ảnh không thiếu đỉnh cao nhưng cũng nhiều lắm những vực sâu.

Brando thành danh từ rất sớm. Ở tuổi hai mươi mốt, anh đã là nam diễn viên triển vọng nhất Broadway. Hai mươi lăm tuổi, Brando bỏ túi đề cử Oscar đầu tiên cho vai Stanley Kowalski trong “A Streetcar Named Desire”. “Stellaa!”, tiếng thét man dại và khắc khoải cuối phim, đã mở tung cánh cửa cho cơn lũ thành công ập đến. Với khán giả, anh mau chóng trở thành biểu tượng của nam tính. Với thế hệ đàn em, anh là thần tượng về tài năng, kẻ khai phá về phương pháp diễn xuất. Với các studio, anh là con gà đẻ trứng vàng. Cả ba vị thế ấy được xác lập trong thời gian kỷ lục: bốn năm, với ba đề cử và một tượng vàng Oscar.

Nam tính bản năng, hoang dại, rực lửa

Công bằng mà nói thì Marlon sở hữu lợi thế không thể tranh cãi về ngoại hình. Ở tuổi bốn mươi tám, Brando của “Last Tango in Paris” vẫn đẹp trai lồng lộng dù gương mặt đã thấm đẫm phong trần. Vậy thì hãy hình dung ra một Brando của tuổi hai mươi tư, trẻ trung, căng tràn nhựa sống. Nam tính của Brando, hay nói đúng hơn là nam tính mà Hollywood và khán giả đã “dán nhãn” cho Brando kể từ “A Streetcar Named Desire”, là thứ nam tính bản năng, hoang dại, rực lửa màu nguyên thủy và luôn ẩn chứa mầm mống bất phục tùng, nghĩa là hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp lịch lãm truyền thống của Hollywood, của những Clark Gable và Cary Grant, và của người tề danh với Brando hồi ấy là Montgomery Clift. Có lẽ chính khác biệt ấy đã góp phần làm nên sức hấp dẫn càn-quét-tất-thảy của Brando (với ba đời vợ, mười bốn đứa con, Brando ngoài đời quả cũng không thẹn với cái hình mẫu nam tính mà Hollywood đã gán cho mình).

Những vai diễn sau “Desire” rất đa dạng nhưng dù vô tình hay hữu ý đều bồi đắp thêm nhiều lớp hào quang khác nhau cho hình tượng Brando theo cùng chiều hướng ấy: Zapata của “Viva Zapata!” (1952) là một người nông dân nổi dậy phản kháng chính quyền độc tài; Marc Anthony trong “Julius Caesar” (1953) từ góc độ nào đó cũng là “kẻ phản nghịch,” kích động quần chúng chống lại đại thế tưởng chừng đã định của Brutus và Cassius; Johnny trong “The Wild One” hiển nhiên là một gã-trai-nổi-loạn, nếu không muốn nói là gã trai nổi loạn ảnh hưởng nhất thập niên 1950; Terry Malloy của “On the Waterfront” (1954, Oscar đầu tiên của Brando) đối đầu với mạng lưới công đoàn mafia và luật im lặng dưới bến tàu; Thiếu tá Gruver trong “Sayonara” (1957) thách thức định kiến hà khắc của Quân đội Mỹ…

Có lẽ từ lâu trước khi nhận vai Napoleon (Desirée, 1954), kẻ nổi loạn vĩ đại của Châu Âu thế kỷ 19, Brando đã được vận mệnh chú định sẽ là kẻ nổi loạn vĩ đại của Hollywood thế kỷ XX. Và cuộc nổi loạn đáng kể đầu tiên của Brando đến từ chính cách diễn xuất của anh. Ngay khi Marlon vừa xuất đạo, người ta đã nhận xét rằng, khi mọi diễn viên khác nặng về biểu cảm và đậm chất kịch, thì Marlon “lặng lẽ và thực tế,” nghĩa là hoàn-toàn-mới.

Sáu vai diễn đầu tiên của Brando mở đường cho sự phổ biến của trường phái Phương pháp (Method acting) tại Hollywood, đem đến cho nhân vật chiều sâu tâm lý và hiện thực chưa từng có. Brando hiếm khi dễ dàng chấp nhận những gì đạo diễn định nhét vào đầu, biên kịch muốn đặt lên môi mình, khi thấy rằng nó chưa đủ thật. Không ít câu thoại để đời của Malloy, Johnny, hay Corlelone là kiệt tác của ông. Mười năm sau khi Brando qua đời, hậu thế (James Franco, ở một bài viết cho tờ New York Times) nói rằng ông không diễn mà đã sống cuộc đời của nhân vật. Không chỉ vậy, ông còn được coi là cầu nối của hai thế hệ – những người hùng hoàn mỹ như Gary Cooper hay Henry Fonda và những phản anh hùng nội tâm đầy mâu thuẫn như Robert De Niro, Jack Nicholson và Dustin Hoffman.


Brando trong vai diễn Bố già ở bộ phim cùng tên

Ngay tác phong trên phim trường của Brando cũng luôn thể hiện sự phá cách, phá cách đến vô kỷ luật: Brando từ chối học thuộc lời thoại, và thường sử dụng card nhắc vở, khi gắn trên tường, khi lủng lẳng trên cổ bạn diễn, để tạo sự “tự nhiên tuyệt đối” cho đài từ của nhân vật. Cũng chính Brando đã khởi đầu cuộc cách mạng trong quan hệ giữa diễn viên với studio. Thay vì đặt bút ký một hợp đồng dài hạn và chịu cho studio đặt đâu diễn viên ngồi đấy, Brando kiên quyết đàm phán từng phim một, giành được sự chủ động chưa từng có trong việc lựa chọn vai diễn. Suốt đời, Brando không ngừng phản kháng sự kiểm soát và thao túng của Hollywood với diễn viên, thậm chí từ chối Oscar dành cho vai diễn Bố già, dù những hành động này đã đem lại cho ông không ít chỉ trích, căm ghét và thậm chí là thù địch.

Người mang nội tâm hoang mang và dễ tổn thương

Nhưng di sản của Brando không dừng lại ở đó. Điều thực sự khiến Brando lay động trái tim khán giả là từ mỗi vai diễn của ông, người xem lập tức nhận thấy, song hành với thứ nam tính mạnh mẽ, bạo liệt ấy, là một nội tâm hoang mang và dễ tổn thương. Kowalski dã thú là vậy nhưng lại dựa dẫm vào sự hiện diện của Stella; Zapata anh hùng biết mấy song lại tự ti vì thất học; Malloy ngổ ngáo bỗng chợt nhu mì trước Edie. Nhân vật là của phim, nhưng nỗi đau dường như là của Brando. Mỗi vai diễn của ông thời trẻ là một nỗ lực khắc khoải, kiếm tìm giá trị của bản thân, khẳng định chính mình, phản bác lại lời dè bỉu cay nghiệt của người cha. Brando, đến khi đã đoạt giải Oscar, vẫn không ngừng hoài nghi năng lực, thành tựu của bản thân và giá trị của nghề nghiệp mà mình đeo đuổi: “Diễn xuất, chứ không phải mãi dâm, là nghề nghiệp cổ xưa nhất. Khỉ cũng biết diễn xuất. Khi con thú chồm dậy, đấm ngực, giả vờ tấn công, ấy là nó đang diễn, hy vọng sẽ làm ta sợ hãi”.

Sau gần một thập niên huy hoàng, Brando nhanh chóng đánh mất khát vọng và đam mê với điện ảnh. Những năm 60, ông sống khép kín, chấp nhận những bộ phim dưới tầm, chìm trong các cuộc tình ngắn ngủi và hôn nhân thất bại.

Cho đến một ngày, Coppola xuất hiện. Với kịch bản “Godfather”.

Có lẽ “Godfather” và Brando sinh ra là để cho nhau. Brando cần “Godfather” để tìm lại hào quang đã mất còn “Godfather” cần Brando để trở thành bất hủ. Nhưng rốt cục, “Godfather” chính là lời nguyền định mệnh của Brando. Bố già, kẻ tranh đấu suốt đời, kẻ sẵn sàng làm tất cả vì gia đình, chính là nỗi ám ảnh, là mộng tưởng sâu kín nhất của ông phản chiếu lên màn bạc. Hình ảnh ấy hội tụ tất cả những gì Brando thiếu vắng và tuyệt vọng kiếm tìm cả ở cha và mẹ. Ba cuộc hôn nhân thất bại, đứa con trai phạm tội giết người, đứa con gái tự sát, hố sâu ngăn cách với những người con khác, đó có lẽ là cái giá mà định mệnh buộc Brando phải trả để trở thành người cha vĩ đại nhất của lịch sử điện ảnh, thành “Godfather” của những thế hệ diễn viên hậu bối.

Nhưng Brando vẫn chưa dừng lại. Sau vai diễn về người cha mơ ước, ông hóa thân thành chính mình ở “Last Tango in Paris” (1972), tiếp đó là người cha ngoài đời thực trong “Apocalypse Now” (1979). Ở hành trình vô vọng tìm kiếm Jeanne (và kết thúc bằng cái chết) của Paul, chúng ta sẽ thấy thất bại của Brando trong nỗ lực gắn kết với các con. Ở gương mặt điên dại của Đại tá Kurtz, chúng ta gặp cơn ác mộng thời thơ ấu của Brando – người cha đã phó mặc ông cho Học viện Quân sự để rèn giũa thằng bé nên người…

Sau nửa đời diễn những vai diễn mà Hollywood viết sẵn cho ông và phong kín tâm tư mình sau nội tâm nhân vật, cuối cùng Brando đã đem đời mình lên màn bạc. “Godfather”, “Tango”, “Apocalypse”, cả ba đã trọn vẹn cuộc hồi sinh kiệt tác của Brando, và biến ông trở thành bất tử.

(Berlin 17 /11 /2014 )

Bài: Nham Hoa

Thực hiện: depweb

04/12/2014, 11:56