Đây là tác phẩm thứ tư
của Beigbeder trong tiếng Việt (Thanh Phương dịch, NXB Văn hóa – Văn nghệ), sau “99 francs”, “Tình yêu kéo dài ba năm” và
“Một tiểu thuyết Pháp”.
Frédéric Beigbeder luôn luôn tuyên bố mình muốn làm một “nhà văn hiện thực”, cả
ở những cuốn sách khác, cả trong các tuyên bố trên báo chí, và ở đầu “Cửa sổ
trên tháp đôi” ông cũng trích dẫn làm đề từ một câu của Tom Wolfe, nhà văn lừng
danh của trường phái tiểu thuyết dưới hình thức phóng sự có tham vọng ghi lại
thực tại chân xác hơn so với hư cấu thông thường. Tom Wolfe hay một người nữa
cùng “dòng”, Hunter S. Thompson đã viết lại những mảng lịch sử văn hóa nước Mỹ
bằng cách tham dự thực tế, thậm chí cả lăn lộn với đối tượng trong thời gian dài.
Lối viết này có thể nói là thoát thai từ Truman Capote của “In Cool Blood” (Máu
lạnh) về hai kẻ sát nhân ở một vùng heo hút nước Mỹ. Beigbeder, cũng như nhiều
nhà văn trẻ tuổi của Pháp khác, bị hấp dẫn bởi văn chương Mỹ hơn rất nhiều so
với văn chương châu Âu.
Nhưng “tiểu thuyết hiện thực” kiểu Beigbeder không giống với tiểu thuyết của
“chủ nghĩa hiện thực” truyền thống. Đây cũng là một trò chơi (chơi với khái niệm
chuẩn mực) xuất hiện rất nhiều trong tác phẩm của Beigbeder. “Một tiểu thuyết
Pháp” là cái nhan đề không thể “hiện thực chủ nghĩa” hơn, giống như “Lối sống Mỹ”
trước đây chúng ta từng biết, nhưng thật ra văn chương của Beigbeder lúc nào
cũng đi lệch khỏi các chuẩn mực. Là nhà văn hay nói đùa, Beigbeder làm người đọc
lúc nào cũng phải thường trực tập trung để tránh rơi vào những cái bẫy ý tưởng
và ngôn từ của ông.
Một đề tài cụ thể và nóng hổi như vụ 11/9 ở Mỹ đã được Beigbeder xử lý đúng bằng
“chủ nghĩa hiện thực” riêng có của mình. Trước hết cần kể đến những câu văn,
cách nhìn đượm mùi hiện thực cổ điển, như câu khái quát “Từ trên cao nhìn xuống,
châu Mỹ có màu be” như đã nói ở trên, rồi rất nhiều câu khác (chẳng hạn ông nói
taxi ở New York giống những con kiến vàng), nhưng hiệu ứng và dụng ý của cách viết đó không nhằm đến một bối cảnh cho tâm
trạng, hay mở màn cho một phân tích kiệt cùng về chi tiết (kiểu Balzac), mà cứ
đứng sững đó, bất ngờ lộ diện, rồi không thấy tiếp nối ở đâu nữa. Cách viết này
làm tác phẩm cứ treo lại mãi lơ lửng đâu đó. Và cũng bởi vậy mà có sự hợp lý của
“ở trên cao nhìn xuống”: nhà văn sở hữu nhu cầu được ở trên cao, tách biệt nhưng
vẫn đủ sức quan sát, nhu cầu đó đi kèm với nhu cầu nối kết với thế giới.
Sự nối kết này, ở trong “Cửa sổ trên tháp đôi”, được Beigbeder xử lý bằng một
hình ảnh (Beigbeder luôn luôn đầy ắp hình ảnh, văn chương của ông vì vậy mà
nhiều lúc tạo cảm giác lỏng lẻo vì tác giả chỉ chăm chăm nhảy sang một ý tưởng
mới hấp dẫn hơn mà lờ tịt đi những gì đã có): nhân vật Carthew Yorston kể cho
hai con trai “rằng vào năm 1974, một người Pháp tên là Philippe Petit đã làm
xiếc trên dây cáp, đi từ tháp bên này qua tháp bên kia” (tr.19). Câu chuyện này
được kể vào đúng buổi sáng định mệnh 11/9 năm ấy, không lâu trước khi thảm họa
xảy ra, cái thảm họa được báo ngay từ mở đầu: “chúng ta đều biết, kết cục cuối
cùng là tất cả mọi người đều sẽ chết” (tr.7) – cái chết đó được cay đắng nhắc lại ở
cuối: “Chúng tôi chết chẳng vì cái gì” (tr.295).
Hình ảnh đi dây này, đầy tinh tế và khéo léo (những phẩm chất này khiến
Beigbeder trở thành một nhà văn đặc biệt duyên dáng, mặc dù văn chương của ông
không thuộc dạng được giới phê bình văn học nước Pháp ca ngợi), được “buộc” vào
với sự kiện nhà văn viết ra câu chuyện về quán “Cửa sổ trên tháp đôi” (Windows
on the World) cũng ngồi tại một cái quán ngất ngưởng trên trời: quán “Le Ciel de
Paris” (Bầu trời Paris) ngự ở tầng cao nhất tòa tháp Montparnasse. Câu chuyện
của Beigbeder nhiều lần triển khai xoay quanh mối quan hệ giữa nước Mỹ và nước
Pháp, và câu chuyện ấy cũng đi, theo lối rất nguy hiểm, trên sợi dây cáp nối
điểm cao nhất của Paris với điểm cao nhất của New York.
Để chống trả sự kinh
hoàng mà các sự kiện bạo lực tạo ra, nhà văn đã chọn phương án lên cao, tuy biết
rằng như thế cũng không giảm bớt nguy cơ. Vì ở trên cao, ông hiểu rõ hơn mọi
chuyện, từ đó mà có phát biểu đầy cay đắng: “Bất lực thôi. Cuốn sách này cũng là đồ vô dụng thôi, giống như mọi quyển sách
trên đời này. Nhà văn cũng giống như kị binh, cảnh sát: luôn đến khi mọi việc đã
quá muộn” (tr.30).
Nhị Linh
