Không gian triển lãm “Punk: Chaos to Couture” tại Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan năm 2013
Từ cửa hàng đến viện bảo tàng
Một sự trùng hợp thú vị thiên về câu trả lời “không” là việc một trong những “tác phẩm trưng bày” cũng được treo trên giá trong buổi bán hàng đại hạ giá của Comme des Garcons diễn ra trong cùng thời gian này tại New York. Lí lẽ phủ nhận khác cũng không thiếu. Trang phục là thứ “phải mặc được lên người” (nôm na, quần phải có hai chứ không phải ba ống và chân váy phải đủ rộng để người ta đi lại được), mà đã tiện dụng thì chỉ để dùng như bàn ghế mà thôi, không thể văn vẻ ngụy biện như Oscar Wilde từng nói “mặc tác phẩm nghệ thuật lên người”. Đấy là chưa kể đến việc quần áo phải được cắt theo dáng người – có lẽ vì thế mà những chiếc quần phồng thùng thình với đáy rộng thường được “giới nghệ” ưa chuộng. Thứ hai, đây là những món đồ kinh doanh được sản xuất hàng loạt, trong khi đó, tác phẩm nghệ thuật chỉ có một bản độc nhất (nhiếp ảnh, bộ môn nghệ thuật của sê ri “năm bản in” hoặc “100 phiên bản ảnh” có thể lên tiếng). Trên phương diện này, gần nhất với nghệ thuật, chính là các bộ váy áo haute couture cầu kỳ, thường là độc nhất vô nhị, may riêng cho ai đó, mặc dù là nghệ thuật đậm tính trang trí thủ công. Lí lẽ nặng cân nhất đánh vào bản chất phù phiếm, thay đổi theo mùa và chạy theo thị hiếu tiêu dùng (hay xu hướng) của thời trang. Ngược lại, nghệ thuật tạo nên vẻ đẹp tinh thần vĩnh hằng mà xuất phát điểm chính là cá nhân độc lập của người nghệ sỹ.
Đây cũng là lý do tại sao người ta hâm mộ các nhà thiết kế (NTK) độc lập với các bộ sưu tập (BST) đầy phong cách cá nhân, nhiều khi đi ngược hẳn các xu hướng thời trang. Chẳng phải đã có những NTK bước vào con đường thời trang vì không thể tìm được trang phục cho bản thân? Điều khó có thể phủ nhận được là thời trang thường hay “tự nhận” mình là nghệ thuật. Quan điểm “thời trang là nghệ thuật” nâng thời trang lên tầm mới, biện minh cho vẻ đẹp lộng lẫy thái quá hay sự xấu xí chủ đích, biến sự phù phiếm thành tố chất ngang hàng với vẻ đẹp có thể thách thức thời gian.
Các thiết kế của Alexander McQueen được trưng bày tại Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan năm 2011
Vẻ đẹp hoang dã và phong cách phản cảm
Chúng ta có thể nói một cách rất giản lược rằng nghệ thuật hoạt động trong mối quan hệ tay ba: người nghệ sỹ, các nhà giám tuyển đưa nghệ sỹ vào bảo tàng hay phòng tranh nghệ thuật, và các nhà phê bình nghệ thuật. Những nhân vật này đưa khán giả (và cả các nhà sưu tầm nghệ thuật) đến gần hơn ý tưởng hay các mối liên quan trong các tác phẩm, nhất là khi đó là sự liên quan đến chính lịch sử nghệ thuật mà người ngoài cuộc thường không dễ dàng nắm bắt được. Đồng thời, họ làm cho các tác phẩm nghệ thuật vượt ra khỏi khuôn khổ của cảm nhận bằng giác quan để đến với tri thức. Nói cách khác, mối quan hệ tay ba nói trên khiến chúng ta tin rằng: những gì nghệ sỹ làm rồi được bày ở các cơ sở nghệ thuật, thực sự chính là nghệ thuật.
Giới phê bình cho rằng cuộc triển lãm mang tên “Savage Beauty” tôn vinh Alexander McQueen tổ chức tại MET năm 2011, một năm sau khi NTK tài ba tự tử, là sự kiện đầu tiên của MET đề cập một cách thành công tính chất nghệ thuật trong các thiết kế thời trang. Trang phục của McQueen vượt ra ngoài khuôn khổ của “món đồ dành cho các cô nàng sành điệu”, bộc lộ nội tâm lãng mạn nhưng u uất, bi quan, đau khổ, sợ hãi ẩn sau vẻ lộng lẫy của thời trang. McQueen cũng không bỏ qua những mối liên quan đến các vấn đề của thế giới đương đại như bản sắc, giới tính, công nghệ cao trong các BST của mình. Năm nay, MET tôn vinh phong cách phản cảm, bẩn thỉu, rách rưới và đầy sự khiêu khích tình dục của trào lưu Punk do Vivienne Westwood khởi xướng trong thập kỷ 1970. Bà cựu giáo viên tiểu học người Anh coi mình không hẳn là một NTK thời trang, mà là “người muốn thách thức tình trạng thối nát trong xã hội qua cách ăn mặc”.
Cảm hứng từ trào lưu Punk thể hiện rất rõ trong các thiết kế được lựa chọn tại triển lãm “Punk: Chaos to Couture” tại Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan năm 2013
Phong cách “vô chính phủ” của Punk bắt nguồn từ sự bế tắc trong cuộc sống (mà khẩu hiệu được ban nhạc Sex Pistols hò hét trong bài hát “No Future”), nhưng đề cao tự do cá nhân đến cực đoan đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều thế hệ các NTK trong các thập kỷ tiếp theo, từ Rei Kawakubo (Comme des Garcons), Ann Demeulemeester, John Galliano đến Gareth Pugh. Cùng với trào lưu Punk, thời trang không chỉ còn đơn giản là cách thể hiện giới tính, nguồn gốc xã hội, nghề nghiệp, tính cách cá nhân, là cách “ăn mặc cho phù hợp nơi chốn” mà còn bắt đầu được coi là phương tiện bày tỏ chính kiến. Thắt lưng khảm đinh nhọn và tóc mohawk giả – biểu tượng phá phách của Punk từ lâu – đã trở thành những món đồ trang trí lung linh sành điệu nhưng có phần khá miễn cưỡng trên thảm đỏ của Met.
Nghệ sỹ thời trang
Quan điểm “thời trang vượt khuôn khổ thời trang” hay “thời trang phủ nhận thời trang” mới có thể giống nghệ thuật có lẽ chỉ mới xuất hiện trong những năm gần đây. Thông thường, người ta gắn thời trang với nghệ thuật qua vẻ đẹp, sự tinh xảo của trang phục (ví dụ như thời trang haute couture) và tâm hồn nghệ thuật của NTK mốt – nghệ sỹ. Theo Valerie Steele – giám đốc Bảo tàng tại Viện Thời trang Công nghệ New York, Charles Frederick Worth, ông tổ của haute couture, là người đầu tiên tự coi mình là một nghệ sỹ. Điều thú vị là “nghệ thuật hóa thời trang” cũng làm cho sự bất bình đẳng giới của xã hội phương Tây thế kỷ 19 trở nên rõ nét.
Thời trang thời đó bị coi rẻ là phù phiếm, còn nghệ thuật mới là lãnh địa cao sang của những người đàn ông xuất chúng. Charles Frederick Worth phân biệt mình với thợ may thông thường, những người phụ nữ may đồ theo yêu cầu và nhiều lúc phải quỳ dưới chân các khách hàng quyền quý để sửa váy áo. Ông đặt mình vào tư thế của “nhà độc tài thời trang” quyết định phong cách nào là phù hợp cho khách hàng. Lấy cảm hứng từ các tác phẩm nghệ thuật (ví dụ như để tìm ra màu sắc thích hợp cho một chiếc váy) và “chỉ đạo nghệ thuật” cho các nữ trợ tá khâu và hoàn thiện trang phục. Khái niệm “nhà độc tài thời trang” đã chết sau thập kỷ 1980, nhưng mô hình “lấy cảm hứng từ nghệ thuật”, hoặc mới hơn “kết hợp với nghệ sỹ” gắn liền trang phục với các giá trị tinh thần cao cấp của nghệ thuật vẫn còn đầy sức thuyết phục, nhất là về mặt thương mại, cho đến tận ngày nay.
Nói đến nữ giới trong thời trang, phải kể đến Gabrielle “Coco” Chanel – một trong những NTK mốt có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử. Chắc hẳn bà không cho rằng sự kết hợp NTK thời trang – nghệ sỹ là một điều lý tưởng khi tỏ vẻ xem thường kỳ phùng địch thủ trong làng thời trang, Elsa Schiaparelli, người có mối quan hệ mật thiết với các họa sỹ của trường phái Siêu thực, với cách gọi giễu cợt “mụ nghệ sỹ người Ý làm nghề thời trang”. Ngay cả khi chính Coco Chanel cũng kết bạn với những nghệ sỹ danh tiếng thuộc nhiều lĩnh vực: từ Jean Cocteau, Igor Stravinsky đến Pablo Picasso. Rei Kawakubo từ chối gọi các thiết kế của mình là nghệ thuật, bất chấp sự ca ngợi của báo chí và các fan hâm mộ. NTK người Nhật cho rằng những giá trị cơ bản dựng nên thương hiệu Comme des Garcons của bà là sự sáng tạo và mới lạ, hoàn toàn không liên quan đến cái đẹp cũng như sự tiện dụng. Đây còn là thời trang, hay đã là nghệ thuật? Có lẽ nên thận trọng nói rằng thật may mắn vì có những NTK mốt đem tinh thần tự do sáng tạo nghệ thuật đến với thời trang.
Bài: Thành Lukasz
Ảnh: AFP