Bạn đã lái xe thể thao mui trần mác Porsche bao giờ? Đã thử diện giày Manolo Blahnik, khoác áo Prada, quàng khăn Hermes, mặc jeans Ralph Lauren, quần Gucci? “Quỷ cái mang đồ Prada“ sẽ chỉ cho bạn thấy đằng sau những hàng hiệu hào nhoáng là cả một công nghệ đánh bóng tinh vi và ít chỗ dành cho lãng mạn.
Andrea Sachs mơ được làm báo ở New York sau khi ra trường, và thoạt tiên vớ được công việc trong mơ: trợ lý cho Miranda Priestly, chủ bút tạp chí thời trang Runway danh tiếng.
Đẹp xin giới thiệu một chương trong cuốn tiểu thuyết đầy thú vị về thế giới của làng báo chí thời trang này:
Tuần thử việc
Đèn giao thông ở ngã tư đường 17 cắt Broadway chưa kịp chuyển sang hẳn màu xanh thì cả một bầy taxi vàng đã nhẹ dạ lướt vèo qua trong khi tôi chặn đứng cả làn đường bên phải bằng cái bẫy giết người mà tôi phải lái đi khắp phố phường New York.
Đạp côn, nhấn ga, vào số (từ mo vào số một? Hay từ số một lên số hai?), nhả côn, tôi lẩm nhẩm quy tắc thần thánh ấy cả chục lượt, song giữa đám xe cộ đan như mắc cửi buổi trưa câu thần chú này chẳng giúp gì được. Chiếc ô tô lồng lên hai bận như con ngựa bất kham, để rồi tiếp đó ngật ngưỡng như một con thỏ què qua ngã tư.
Tim tôi nhảy thình thịch trong ngực. Đột ngột xe thôi ngật ngưỡng và chuyển động trơn tru. Tôi liếc nhanh xuống xem có đúng là vẫn đang đi số hai, và khi ngẩng lên thì mũi xe đã dí sát vào đuôi chiếc taxi vàng đằng trước, không còn cách nào khác ngoài việc nghiến răng đạp chí mạng lên bàn phanh – và gẫy quặp gót giày.
Khốn nạn! Lại một đôi giày 700 đôla đi tong vì sự vụng về – đôi thứ ba trong tháng này rồi. Tôi nhẹ cả người khi thấy động cơ chết ngóm (hình như lúc đạp cú phanh cứu mạng thì đáng lẽ tôi phải đạp cả côn mới đúng).
Giờ thì tôi có mấy giây đồng hồ, đủ để thong thả tháo đôi Manolo quẳng lên ghế phụ, trong khi xung quanh tôi inh ỏi tiếng còi xe và rào rào những câu quát chửi tục tĩu. Lấy gì chùi bàn tay đẫm mồ hôi bây giờ, ngoài cái quần Gucci bó chặt người đến nỗi máu hết đường chảy mà xỏ chân được vào rồi cài đến chiếc khuy trên cùng không khác gì đánh vật.
Ngón tay quẹt thành mấy vệt kinh tởm trên lớp da lộn mềm như nhung. Tôi phải làm hơi thuốc thôi, không thì khó mà đưa nổi cái xe mui trần 84.000 đôla này lành lặn qua nổi ma trận của Manhattan đương vào giờ nghỉ trưa.
“Biến nhanh đi được không, chị gái!” một tay lái xe trông rất bựa với túm lông ngực thò qua cổ may ô ba lỗ. “Hay là chị gái tưởng đang trong giờ học lái xe? Biến!”
Tay run, nhưng tôi vẫn ngỏng ngón tay giữa tục tĩu lên và hoàn thành ngay nhiệm vụ thiết yếu nhất cái đã: châm ngay tắp lự một choác ni-cô-tin! Tay tôi ướt rượt, mấy que diêm liền tuột khỏi tay rơi xuống sàn xe.
Rốt cuộc, đúng vào lúc tôi định rít hơi đầu tiên thì đèn tín hiệu bật xanh. Với điếu thuốc ngậm trên môi, tôi trở lại với nghệ thuật phức tạp của đạp côn, nhấn ga, vào số (từ mo vào số một? Hay từ số một lên số hai?), nhả côn, khói thuốc phì phọt ra vào theo từng hơi thở.
Phải qua hẳn ba khu nhà nữa thì xe mới chạy đều đều để tôi có dịp lấy điếu thuốc khỏi miệng, song quá muộn: tàn thuốc đã rụng xuống, rơi ngay cạnh vệt chùi mồ hôi trên quần. Điên quá.
Trước khi hiểu hết toàn bộ thảm cảnh là trong vòng ba phút tôi đã phá hỏng đồ dùng giá trị 3.100 đôla – tính cả đôi giày Manolo – thì chiếc điện thoại di động lại reng reng lên tiếng, và số điện thoại hiện lên khẳng định điều tôi lo sợ nhất đã thành sự thật: đích thân Miranda Priestly, bà chủ của tôi.
“Aan-dree-aa! Aan-dree-aa! Chị có nghe tôi không đấy? Aan-dree-aa!” tiếng bà rền lên chói tai khi tôi vừa bật được nắp chiếc Motorola – quả là kỳ công trong khi tôi bận tíu tít cả hai tay hai chân (trần). Tôi kẹp chiếc điện thoại vào giữa cằm và vai rồi búng điếu thuốc qua cửa sổ xe, thiếu chút nữa thì trúng một gã xe đạp đưa thư. Hắn gào toáng lên một câu khá tục tằn.
“Vâng, Miranda, tôi nghe bà rất rõ.”
“Aan-dree-aa, xe tôi đâu rồi? Chị đã đưa nó vào nhà đỗ xe chưa?”
Đèn hiệu trước mặt chuyển sang đỏ. Tôi lập bập dừng được xe mà không đâm phải người nào hoặc cái gì, rồi hít một hơi thật sâu. “Miranda, tôi đang trên xe mà, nhưng sắp đến nơi rồi”. Tôi đưa đẩy thêm mấy câu trấn an để quả quyết với bà ta là cả chiếc xe mui trần lẫn tôi đều lành lặn và chỉ vài phút nữa thôi là chúng tôi sẽ về tới đích yên ổn.
“Ờ, được rồi”, bà ta thô lỗ ngắt lời tôi. “Trước khi về văn phòng, chị phải đón Madeleine và đưa nó về nhà”. Chấm hết. Tôi ngớ ra, nhìn chằm chằm vào điện thoại một lát, nhưng nó không nhả ra tiếng động nào nữa. Rõ ràng Miranda cho rằng mọi chuyện cần thiết đã nói rồi.
Madeleine? Madeleine là của nợ nào nhỉ? Và nó đang ở đâu lúc này? Nó có biết là tôi đến đón nó không cơ chứ? Rồi nó sẽ làm gì trong căn hộ của Miranda?
Và tại sao lại chính tôi phải giơ đầu ra hứng lấy công việc này, trong khi Miranda 24/24 nuôi một tay tài xế, một bà quản gia và một cô trông trẻ?
Ở New York cấm vừa lái xe vừa gọi điện, vì vậy tôi rẽ sang làn dành cho xe buýt, tạt vào lề đường rồi bật đèn nháy cảnh báo – lúc này thì chuyện mà tôi ngại nhất là đụng độ với cảnh sát New York.
Hít vào, thở ra, tôi tự nhủ. Thậm chí tôi còn nhớ kéo phanh tay sau khi bỏ chân khỏi bàn đạp phanh. Từ đời nảo đời nào rồi tôi không lái xe có cần số bao giờ, nói chính xác là từ năm năm nay. Hồi ở trường trung học tôi được một anh bạn dạy cho mấy giờ song không nhớ gì mấy.
Tất cả những chuyện đó không có ý nghĩa gì với Miranda, lại càng chẳng đáng để hỏi lại lúc bà ta gọi tôi tới văn phòng cách đây một tiếng rưỡi.
“Aan-dree-aa, chị đi lấy cho tôi ô tô, đánh về nhà đỗ xe. Ngay bây giờ. Tối nay chúng tôi cần xe để đến Hamptons”. Tôi đứng như trời trồng trước cái bàn làm việc to tướng của bà ta, nhưng lúc đó bà ta có nhìn tôi nữa đâu. Ít nhất là tôi tưởng thế, cho tới khi bà thả cho tôi đi với một câu kết: “Thế thôi, Aan-dree-aa, làm đi”, bà nói thêm mà không ngẩng nhìn tôi.
Tất nhiên rồi, Miranda, tôi nghĩ vậy khi rời văn phòng. Chưa qua hẳn khung cửa tôi đã đần ra nghĩ xem bà ta có ý định gì khi trao cho tôi nhiệm vụ kỳ bí đầy những cạm bẫy này.
Dù thế nào chăng nữa thì trước tiên tôi cũng phải tìm ra địa điểm chiếc xe mà tôi phải đi lấy về đã. Có lẽ nó ở trong xưởng bảo dưỡng theo hợp đồng, nhưng cũng hoàn toàn có thể vừa được sửa chữa ở đâu đó trong số hàng triệu xưởng chữa ô tô của New York.
Biết đâu bà ta cho bạn gái mượn xe và bây giờ nó đang được chăm chút trong một nhà xe đắt chóng mặt nào đó trên đường Park Avenue. Dĩ nhiên không ngoại trừ trường hợp bà ta ám chỉ một chiếc xe mới toanh vừa mua mà tôi phải đến lấy về ở một nhà xe (mà tôi chưa biết).
Đầu tiên tôi thử hỏi cô trông trẻ của nhà Miranda, nhưng chỉ được nối với hộp thoại nhắn tin di động. Tìm được bà quản gia thì may mắn hơn. Bà cho tôi biết là may mắn thay đó không phải là một chiếc ô tô mới đập hộp, mà là một chiếc xe thể thao mui trần màu xanh lá cây đậm, bình thường thì Miranda để nó ở nhà xe của mình. Tuy nhiên bà quản gia không rành mác xe, cũng chẳng biết hiện giờ nó đang ở đâu.
Thêm một cuộc gọi đến xưởng Porsche ở đại lộ số 11, và vụ điều tra đã được hoàn tất. Ở đó họ vừa tút xong mấy mảng sơn nho nhỏ trên chiếc Porsche Carera 4 mui trần màu xanh của bà Miranda Priestly.
Sau nửa tiếng dài dằng dặc, tôi đánh xe qua được hẳn mười dãy nhà, song vẫn chưa biết cách quay đầu xe để đi theo hướng dẫn đến nhà riêng của Miranda mà bà quản gia đã miêu tả rõ cho tôi.
Có lẽ không thể nào yên ổn đi đến đó mà không gây tai họa nghiêm trọng nào cho chính tôi hay cho chiếc Porsche, cho một người đi xe đạp, đi bộ hoặc một chiếc xe khác.
Lại gọi di động một chầu nữa: “Chào Cara, tôi đây”.
“Alô, có chuyện gì vậy, chị đang ngoài đường hả, ồn quá đi mất”.
“Chính xác. Tôi phải đi lấy chiếc Porsche của Miranda từ xưởng về. Bà ấy vừa gọi điện bảo tôi đón Madelaine đưa về nhà. Con bé Madelaine khốn kiếp ấy là ai vậy, và nó đang trốn đâu?”.
Cara cười sằng sặc như hóa rồ trước khi nói được tiếp. “Madelaine là con mèo giống Ba Tư của bà ấy, nó đang ở chỗ bác sĩ thú y. Lẽ ra tôi phải đi đón nó, nhưng Miranda vừa gọi điện bảo tôi đón hai đứa sinh đôi từ trường về sớm hơn để cả nhà đi Hamptons”.
“Chị đùa hay sao thế. Tôi đi đón một con mèo chết tiệt bằng chiếc Porsche này sao? Mà không được đâm phải ai? Quên khẩn trương”.
“Nó đang ở bệnh viện thú y East Side, đường số 52. Xin lỗi Andrea nhé, tôi phải lên đường đi đón hai cô bé ngay. Nếu cần gì cứ gọi điện cho tôi ngay, okay?”.
Đưa được cục sắt khốn kiếp màu xanh đến đường số 52 thì tôi đã lạc hết cả ba hồn bảy vía. Đúng lúc tôi nghĩ bụng rằng có lẽ không còn gì tồi tệ hơn có thể xảy ra được nữa thì một chiếc taxi phanh cách đuôi xe tôi chỉ còn cách hai phân. Một vết xước trên xe nhất định sẽ làm tôi mất việc, nếu không nói là mất mạng.
Giữa ban ngày ban mặt thì có nằm mơ cũng không ra một chỗ đỗ xe hay thậm chí một vệt trống trong đoạn cấm dừng, vì vậy tôi gọi điện cho bệnh viện thú y và đề nghị họ đưa Madelaine ra xe cho tôi.
Mấy phút sau, một phụ nữ dễ thương xuất hiện với cái lồng mèo (vừa vặn lúc đó thì Miranda gọi điện hỏi tại sao tôi vẫn chưa quay về văn phòng) qua chấn song tôi nhìn thấy một đống lông xù trăng trắng.
Bà ta dặn tôi lái xe rất, rất cẩn thận, vì con mèo đang bị đau. Tất nhiên rồi, thưa bà, tôi sẽ đi rất, rất cẩn thận, cốt chỉ để giữ chỗ làm việc của mình, và có thể cả tính mạng mình nữa chứ, và nếu điều đó có lợi cho con mèo thì càng tốt thôi.
Sau khi đặt con mèo lên ghế phụ lái và châm xong một điếu thuốc lá, trước hết là tôi xoa bóp đôi chân lạnh ngắt cho ấm lên để có cảm giác khi đạp lên bàn đạp côn và phanh. Đạp côn, nhấn ga, vào số, nhả côn, tôi lẩm bẩm như đọc kinh và cố lờ con Madelaine cất tiếng meo meo tội nghiệp mỗi khi tôi tăng tốc. Nếu không kêu toáng lên thì nó rên rỉ hay rít lên những âm thanh khó hiểu và mỗi lúc lại càng hung hăng hơn.
Tôi thử xoa dịu, nhưng nó nhận ra là tôi không thật sự có ý định đó, vả lại tôi không có tay nào rỗi để vuốt ve hay vỗ về nó cả. Thì ra để làm việc này tôi đã tiêu phí bốn năm trời của đời mình để phân tích và trình bày tiểu thuyết, tác phẩm sân khấu, truyện ngắn và thơ – cốt chỉ để an ủi vỗ về một con mèo nhỏ trắng được nuông chiều quá mức, trong khi cố gắng không đâm nát chiếc xe rất, rất đắt tiền.
Rồi thì tôi cũng quẳng được chiếc xe vào nhà đỗ và con mèo cho tay gác cổng của Miranda mà không gây ra sự cố nào, song tay tôi vẫn run khi leo lên chiếc xe từ nãy vẫn bám đuôi tôi đi dọc ngang thành phố. Ông tài xế nhìn tôi đầy thông cảm và nói là xe có cần số quả là không đơn giản, nhưng tôi không bụng dạ nào mà bắt chuyện.
“Bây giờ quay về tòa nhà Elias-Clark”, tôi thở dài, trong khi tài xế đánh xe vòng quanh khu nhà và đi về phía Nam hướng Park Avenue. Quãng đường này tôi đi qua hằng ngày, đôi khi hai lần, do vậy tôi biết là mình còn chính xác tám phút để hít vài hơi thật sâu, trấn tĩnh và suy nghĩ xem làm cách nào tẩy được những gì mà tàn thuốc và mồ hôi đã biến thành hình trang trí vĩnh cửu trên chiếc quần da lộn hiệu Gucci. Còn đôi giày thì rõ ràng là đi tong rồi.
Nào ngờ lần này xe chỉ đi mất sáu phút rưỡi là tới nơi, và tôi không còn sự lựa chọn nào khác là tập tễnh chấm phẩy như một con hươu cao cổ bị sái chân với một chiếc giày cao gót và một chiếc mất gót.
Đảo qua kho quần áo, tôi thủ luôn một đôi bốt Jimmy Choos mới tinh màu hạt dẻ cao đến đầu gối, cực kỳ đúng cạ với chiếc váy da lộn màu nâu mà tôi vớ được khi chạy ngang giá treo. Chiếc quần da bay lên chồng quần áo đưa đến bộ phận tẩy đồ (mà tôi biết là giá giặt khô mỗi chiếc từ 75 đôla trở lên).
“Aan-dree-aa”, tiếng bà chợt gọi từ căn phòng bày biện rất sơ sài và lạnh lẽo của mình, “Ô tô và con mèo ở đâu rồi?”.
Tôi vùng dậy khỏi ghế và lao như tên sang phòng bà, nhanh như đôi gót giày 12 phân cho phép tôi chạy trên lớp thảm dày. “Tôi đã trao xe cho bảo vệ ở nhà đỗ xe, thưa bà, còn con mèo thì đưa cho thường trực rồi ạ”, tôi đáp, tự hào đã hoàn thành cả hai sứ mệnh mà không đưa chiếc xe, con mèo và ngay cả tôi sang thế giới bên kia.
“Đầu óc chị để đi đâu vậy nhỉ?” bà ta hỏi và lần đầu tiên kể từ khi tôi bước vào ngước mắt khỏi tờ Women’s Wear Daily đang đọc. “Rõ ràng là tôi đã nhờ chị đưa cả hai tới văn phòng. Hai đứa bé sẽ đến đây bất cứ lúc nào, và chúng tôi đi luôn”.
“Vậy sao, tôi tưởng là bà bảo tôi…”
“Đủ rồi. Tôi ít quan tâm đến tật nghễnh ngãng của chị. Chị đi lấy xe và đưa con mèo về đây. 15 phút nữa tôi định xuất phát. Hiểu rồi chứ?”.
15 phút nữa? Bà ta nằm mơ hay sao ấy nhỉ? Tôi cần một, hai phút để đi thang máy xuống tầng dưới và gọi xe, sáu đến tám phút mới đi tới nhà bà, sau đó cần khoảng ba thế kỷ để tìm con mèo trong căn hộ 18 phòng, đánh chiếc xe chết tiệt khỏi nhà đỗ rồi đi 20 dãy nhà mới về đến văn phòng.
“Tất nhiên rồi, Miranda, 15 phút nữa”.
Ra đến ngoài cửa là tôi bắt đầu run như dẽ. Tôi tự hỏi, liệu tim tôi có ngừng đập ngay bây giờ ở lứa tuổi 23 tươi đẹp. Nào cố gắng lên, tôi tự nhủ hãy nhìn đời một cách lạc quan hơn. Khi mi quay về, biết đâu bà ta đã ngoẻo rồi thì sao?
Có thể thôi, có thể bà ta chết vì một chứng bệnh kỳ bí hiếm hoi nào chăng, đó sẽ là sự giải thoát cho tất cả chúng tôi.
Không, không được, mi không muốn bà ta chết, tôi nghĩ vậy trong khi duỗi người trên ghế sau. Vì nếu Miranda chết rồi thì mi sẽ hết mọi hy vọng được tự tay bóp cổ bà ấy, và thế thì tiếc ơi là tiếc…
Trích “Quỷ cái mặc đồ Prada” của Lauren Weisberger (Lê Quang dịch)