Khi công chúng không buồn đối thoại

Theo tôi, vào thời điểm hiện tại, và nhất là tại Việt Nam, chính cái ý chí, hay cái khao khát trở thành công chúng nghệ thuật mới là điểm cốt lõi để phân biệt một công chúng nghệ thuật và một người ghé xem tác phẩm. Nếu không có đủ cái ý chí hay khao khát này, sẽ rất khó có bất kỳ cuộc đối thoại nào xảy ra được, và như vậy, các vách ngăn cố hữu giữa nghệ thuật đương đại và công chúng tại Việt Nam sẽ chỉ ngày càng sâu thêm qua các cuộc triển lãm.



“Tôi buộc mình phải đối lập lại bản thân để từ khước việc hài lòng với khiếu thẩm mỹ của bản thân” (Marcel Duchamp)


*Trích Tuyên ngôn về vẻ đẹp bền vững của Davines.



Goût? Chưa đủ!


Chúng ta biết rằng tiếp cận các vấn đề văn hóa nghệ thuật luôn được xây dựng trên mô hình của một cuộc đối thoại hai chiều, trên cơ sở của hành vi lắng nghe lẫn nhau, hành vi tìm cách thấu hiểu người đối thoại, hay hành vi tự do phát triển các chủ đề đối thoại theo những hướng bất ngờ nhất. Và theo đó, thành quả của một cuộc đối thoại không phải là việc bên đối thoại này thuyết phục được bên đối thoại kia về điều gì. Mà là việc mỗi bên đối thoại đều mở rộng được tầm nhìn của mình về thế giới, không phải qua hành vi ngăn chặn những gì khác với mình, mà qua hành vi thông dịch những gì khác với mình vào những gì quen thuộc với mình.




Một cuộc thảo luận về chủ đề
giáo dục nghệ thuật tại ga 0, thuộc dự án “Làm thế nào trở thành nghệ
sĩ” của Tạ Mỹ Nhàn.
Trong cuộc thảo luận này, các nhà báo, nhà sưu tập,
giảng viên trường mỹ thuật, họa sĩ, sinh viên và
công chúng tự do thảo
luận với nhau về các chủ đề thuộc giáo dục nghệ thuật Việt Nam.


Cũng như một cuộc đối thoại trong đời thực, các định kiến có trước là điều không ai trong chúng ta không có. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là chúng ta cần sẵn sàng để cải biến các định kiến trong quá trình đối thoại. Ở đây, tôi muốn đề cập tới một điểm khác, mà tiếng Anh gọi là “Will”, tôi xin dịch tạm là “khao khát/ý chí”. Cũng như một người có sự sáng tạo, có tài năng tạo tác phải cần có sự khao khát để qua đó chuyển hóa bản thân thành một nghệ sĩ, một người ghé xem triển lãm cũng cần phải có khao khát này để nhờ đó trở thành một công chúng. Sự thật cho thấy, chỉ khi sở hữu khao khát này, một người ghé xem triển lãm mới có thể trở thành một công chúng đúng nghĩa, nhìn từ góc độ là một thành phần đối thoại với tác phẩm nghệ thuật.




Lâu nay chúng ta có vẻ như chưa hẳn đã rạch ròi trong quan niệm này về công chúng. Hay nói đúng hơn, lâu nay chúng ta vẫn chỉ dựa vào thước đo “goût” hay “taste” (khiếu thẩm mỹ), để định vị công chúng nghệ thuật. Nói cho chính xác, đây là một vật tạo chế văn hóa (cultural artifact), và chỉ trong vòng thế kỷ 17, nhân vật người có khiếu thẩm mỹ (the man of taste) mới bắt đầu xuất hiện trong xã hội châu Âu.




Tuy nhiên, như đã nói ở trên, với sự phát triển vô tiền khoáng hậu, không chỉ ở các cách quan niệm về nghệ thuật từ thời Kant cho đến nay, mà còn ở chính các công cụ tiếp nhận và cảm thụ tác phẩm nghệ thuật từ đó tới nay (ví dụ sự ra đời của máy ảnh, của điện ảnh, của video, của các công cụ số hóa), quan niệm về công chúng nghệ thuật đặt cơ sở trên khiếu thẩm mỹ, vào thời điểm này, chắc chắn là không đầy đủ.




Tác phẩm Brillo Box của Andy Warhol

Để nghệ thuật đừng là “đánh đố”


Quả thực, trong hoàn cảnh Việt Nam hiện tại, việc đòi hỏi công chúng phải tự mình “đi mà hiểu” tác phẩm của nghệ sĩ là một việc rất khó. Các cơ sở giáo dục nghệ thuật của Việt Nam hoạt động chưa mạnh. Sách vở lý thuyết về nghệ thuật tại Việt Nam hầu như vắng bóng. Các không gian bảo tàng, gallery tại Việt Nam hầu như không hề tồn tại các chương trình giáo dục nghệ thuật, thậm chí theo kiểu thường thức.

Vì lẽ đó, một thái độ “đóng” về đối thoại của bất kỳ bên này (nghệ sĩ) hay bên kia (công chúng), trong hành vi truyền thông với nhau, cả ở góc độ triển lãm nghệ thuật lẫn góc độ hậu sản xuất, chắc chắn sẽ chỉ tạo ra hố sâu ngăn cách giữa nghệ sĩ và công chúng, và dĩ nhiên là sẽ dẫn tới một hậu quả nhãn tiền là việc, vì đánh mất mối quan hệ cả về mặt đời sống lẫn mặt diễn ngôn với công chúng, nghệ thuật đương đại rơi vào vị thế của một biệt cư trong đời sống và qua đó, đánh mất đi vai trò, hay ý nghĩa của nó trong đời sống thực tại của con người.




Bức tranh Guernica (3,5m x 7,8 m – 1937) của Picasso

Về phần nghệ sĩ, theo tôi, khi đang hoạt động tại Việt Nam, cũng rất cần phải có một ý thức về đối thoại. Tuy nhiên, với các nghệ sĩ, theo tôi, ý thức đối thoại này chủ yếu là rất cần ở giai đoạn hậu sản xuất, tức giai đoạn triển lãm hay trình diễn/trình bày tác phẩm. Thực tế cho thấy, dù có rất nhiều nghệ sĩ có những tác phẩm không hề xoàng, tuy nhiên, ý thức về đối thoại của nghệ sĩ trong quá trình xây dựng và trình bày tác phẩm lại rất yếu…




Tranh của họa sĩ Picasso

Như vậy, để đạt tới một cuộc đối thoại, để vượt qua các hạn chế về mặt định kiến cố hữu nhờ đó một cuộc đối thoại sẽ xảy ra và tạo cơ hội mở rộng tầm nhìn, về mặt người xem, họ cần phải có khao khát hay ý chí để trở thành công chúng, và về mặt nghệ sĩ, họ phải có ý thức về tính đối thoại của tác phẩm nghệ thuật và ý thức này nên hiện diện trong nghệ sĩ, không chỉ ở quá trình tạo nên tác phẩm, mà còn ở các hành vi cụ thể trong quá trình hậu sản xuất, như việc viết statement, việc in ấn catalogue, hoặc việc tham dự các cuộc artist talk với một thái độ mang tính xây dựng.



Không phải sự thiếu vắng các cơ sở hạ tầng giáo dục và lý thuyết nghệ thuật tại Việt Nam, mà chính sự thiếu vắng ý chí hay khao khát trở thành công chúng nghệ thuật nằm ở khu vực người xem tác phẩm, và sự thiếu vắng ý thức về tính đối thoại của nghệ phẩm nơi nghệ sĩ mới là nguyên nhân chính cho sự đi chậm của nghệ thuật đương đại Việt Nam so với thế giới.




Ý thức rõ về nguyên nhân này và tìm cách cải biến nó, theo tôi sẽ là một bước tiến quan trọng và tạo ra tác dụng vô cùng lớn lao, không chỉ làm thay đổi khuôn mặt nghệ thuật Việt Nam, mà còn tạo ý nghĩa cho chính các thực hành nghệ thuật đương đại, giúp chúng không trở thành những trò chơi tiền phong, phần nào vô bổ, trong các biệt cư tự hài lòng với nhau.



Bài: Giám Tuyển Như Huy




From the same category