Tết ngày xưa và những người muôn năm cũ (P3) - Tạp chí Đẹp

Tết ngày xưa và những người muôn năm cũ (P3)

Sống

Ngoài ra còn kiêng không được vịn vai mẹ (vì xui xẻo), không được quét nhà (vì sẽ quét cả giàu sang đi), vân vân… Tôi thích nhất việc không phải quét nhà, vì tha hồ cắn hạt dưa và vất vỏ xuống đất; vỏ hạt dưa đỏ đầy cả nhà, bước lên nghe lạo xạo, hòa lẫn với màu xác pháo tươi thắm đầy sân trông thật vui mắt…

“Ẩu đả ngưu” – bức tranh mô tả lễ hội chọi trâu của bé Thanh Lan (học sinh Trường Tiểu học Thực nghiệm, Hà Nội).  

Sáng mồng một Tết, sau khi đã dọn thức cúng lên bàn thờ tổ tiên, mẹ tôi gọi chúng tôi ra để bà mừng tuổi. Kèm với phong bao màu đỏ đựng những đồng tiền mới còn thơm mùi giấy bạc mới là những câu chúc đầy ý nghĩa, thích hợp với từng đứa con. Mười một anh chị em, hầu như năm nào cũng có một, hai, hay ba chúng tôi phải trải qua một kỳ thi quan trọng:  thi vào đệ thất trường công, thi trung học đệ nhất cấp, tú tài phần một, tú tài phần hai, thi  đại học… Nếu phải chuẩn bị để thi cử trong năm, chúng tôi sẽ được bà chúc “thi đâu đậu đấy”.

Những đứa nhỏ thì luôn luôn được thêm câu “hay ăn chóng lớn”. Đến phiên tôi, xen lẫn với niềm vui của nghi lễ trang trọng đầu năm, là một chút cảm giác “bất an”, vì bao giờ câu chúc của bà cũng được kết thúc bằng “… và mẹ chúc con năm nay không còn khóc dai nữa” mà tôi có cảm tưởng như một lời trách nhẹ nhàng. Anh tôi luôn luôn lém lỉnh chúc lại mẹ: “Năm mới năm me, con xin chúc mẹ, mẹ le nhất đời …” Mẹ tôi nhoẻn miệng cười, giọng bà nhẹ nhàng chúc cho anh sang năm ăn nói ý tứ, ai cũng yêu mến.

Chúng tôi cũng thích nhất trong những ngày Tết là không phải ăn đúng bữa và không cần phải ăn cơm. Cả ngày không phải đi học và cũng không bị sai quét nhà hay phụ dọn cơm, cả lũ chúng tôi đi ra đi vào, thỉnh thoảng nhón một miếng giò thủ, hay miếng xôi lạp xưởng, hay một mẩu bánh chưng… Công việc chính của đám lau nhau chúng tôi ba ngày Tết là bưng nước mời khách và nhận tiền mừng tuổi. Các chị lớn của tôi đứng trong nhà pha trà, rót ra ấm chuyên để cho những lá trà còn sót lại lắng xuống đáy, rồi mới chuyển sang những tách nhỏ bằng men trắng mỏng có hình cô tiên hoặc hoa hồng và viền vàng hay bạc rất đẹp mà mẹ tôi chỉ mang ra dùng vào ngày Tết hoặc giỗ. Chúng tôi sắp tách lên khay rồi bưng ra mời khách.

–    Tôi:  Cháu lạy hai bác ạ.
–    Khách:  À, con bé này là Yến phải không?  Trông nó kháu khỉnh quá nhỉ.  Lại còn học giỏi nữa, thi được vào trường Gia Long cơ đấy.
–    Tôi (e thẹn):  Dạ… cháu mời bác xơi nước ạ.
–    Khách:  Thế cháu vẫn học giỏi chứ?  Thi đệ nhất lục cá nguyệt cháu được hạng mấy?
–    Tôi: Dạ cháu được hạng ba.  (Lòng hơi buồn bã vì thế nào em tôi khi được hỏi, sẽ khoe là được đứng nhất lớp).
–    Khách:  À, cháu học giỏi quá nhỉ. Đây bác mừng tuổi cho cháu nhé.  Bác chúc cháu năm mới luôn luôn học giỏi, ngoan ngoãn, và ngày càng xinh đẹp nhé.  Thế các em cháu đâu, ra đây bác mừng tuổi luôn thể.

Tôi mừng rỡ chạy vào gọi các em ra, để khỏi bị cầm tay trả lời mọi câu hỏi và có khi đứng mỏi cả chân cũng chưa được thả ra để vào trong nhà vừa ăn hạt dưa và mứt, vừa chơi bài các tê tiếp.

Ngày Tết ở nhà tôi thường chơi ba loại bài. Khi có cả bà ngoại tôi và bố mẹ cùng chơi, chúng tôi được chơi rút bất. Bài bằng chữ Tàu, chúng tôi không đọc được, nhưng nhìn hình vẽ đế biết là quân gì. Khi đến phiên mình, mỗi người được rút một cây bài, và rút bao nhiêu lần cũng được; tuy nhiên hễ rút quá 10, thì gọi là “bất”, tức là thua cả. Các anh chị lớn của tôi thường hay chơi tam cúc. Lá bài cũng bằng chữ Tàu, có nhiều luật lệ khó khăn và chơi thường phải đấu trí thì mới ăn được lá bài cuối cùng. Đám lau nhau chúng tôi thường chơi bài các tê hay còn gọi là bài Tây. Chúng tôi bị giới hạn không được đặt quá 5 cắc mỗi lần.

Tôi thích nhất là buổi tối ngày Tết khi cả nhà ngồi chen nhau trên cái phản lớn chơi bất, khi có cả chú T., là em họ của mẹ tôi đến chơi. Chú rất vui tính, thường ăn gian, rút nhiều quân bài rồi giấu bớt vào tay áo, nên ăn to liền mấy ván. Đến khi chúng tôi nghi ngờ, hùa nhau đè chú ra, rồi hễ bắt được chú giấu bài, là lục túi, lấy hết tiền của chú đem chia nhau; chú cười khà khà vui vẻ, khoe bộ răng ám khói thuốc. Chú cũng là con một như mẹ tôi, và mẹ tôi với chú thân nhau còn hơn cả chị em ruột. Chú thua mẹ tôi đúng mười hai tuổi, và mẹ tôi thua bố tôi cũng đúng mười hai tuổi. Cả ba người cùng cầm tinh con khỉ.  Ngày còn bé, chúng tôi cãi nhau thường tức mình gọi nhau là “khỉ già”.  Thỉnh thoảng mẹ tôi nghe được, bèn mắng chúng tôi: “Mẹ cũng là khỉ già, bố chúng mày cũng là khỉ già đấy; không được gọi nhau là khỉ già nữa”.
Những năm tản cư, khi mẹ tôi đã sinh đến người chị kế tôi, chú T. chỉ mới là cậu học sinh trung học. Bà cụ thân sinh ra chú là em của bà ngoại tôi; lúc ấy vì ông cụ mất sớm, bà phải đi buôn bán xa nên gửi chú cho mẹ tôi, và dặn dò hễ mẹ tôi đi đâu, thì cho chú đi đấy. Bố tôi cũng có khi phải làm ở tỉnh xa; có lúc mẹ tôi một mình dẫn đàn con đi chạy loạn; chú lẽo đẽo đi theo mẹ cùng với bầy cháu nhỏ.

Trong một lần chạy loạn, sau khi con cái đã yên ổn ở nhà người quen trên tỉnh, mẹ tôi quyết định đi về làng để lấy thêm ít của cải còn giấu chưa đem đi được; chú cũng đòi đi theo. Về đến nơi, dân làng đã chạy hết cả chẳng còn ai. Mẹ tôi và chú vừa bước vào nhà thì lính Tây cũng về đến đầu làng.  Mẹ và chú vội vàng leo lên trần vựa thóc, rồi rút thang lên giấu. Lính Tây với xe jeep và súng ống vào càn quét và khám xét từng nhà.  Chú lo sợ khóc. Mẹ tôi dỗ: “Đừng lo, nếu có chết thì cả hai chị em cùng chết.” Chú ngưng ngay nước mắt và hỏi: “Chị nói thật nhé.  Nếu có chết thì chị cùng chết với em nhé.”  Mẹ tôi cả quyết: “Ừ, chị sẽ cùng chết với chú.” Thế là chú yên tâm, và hai chị em ngồi im đợi cho đến chiều tối, khi Tây đã đi sang làng bên cạnh, mới lẻn xuống, lấy ít vàng trong chỗ giấu, bỏ vào cái gối đầu, khâu lại, rồi hai chị em đi bộ miệt mài cho đến khuya mới về đến nhà trọ trên tỉnh.

Thỉnh thoảng chúng tôi lại được nghe nhắc đến kỷ niệm này, và cười bò ra chế giễu chú.  Là con một nên chú ăn chơi thỏa chí. Trong cuốn album của gia đình, mẹ tôi vẫn còn giữ bức ảnh chụp lúc chú còn là cậu học sinh đệ nhất, đứng cạnh chiếc xe đạp bên bờ hồ Hoàn Kiếm. Quần trắng, giầy trắng bảnh bao, chú cười toe với bộ răng bất hủ, trông rõ ra một cậu công tử. Ngày đi học, tối chú cùng bè bạn đi khắp các cao lâu, thường đến khuya mới về. Vừa dắt xe vào nhà, là chú chạy ngay đi tìm người chị kế tôi, lúc ấy mới lên ba, để cho quà. Đi chơi khuya đến đâu cũng không bao giờ chú quên cháu: khi thì cái bánh, khi thì hộp kẹo, khi thì con búp bê nhắm mắt mở mắt và biết khóc…

Vì chú vui tính như thế, năm nào chú cũng nhận vinh dự xông đất cho gia đình tôi. Mẹ tôi vừa cúng giao thừa xong là chúng tôi đã nghe tiếng xe vespa của chú nổ giòn ở cổng.

Chúng tôi ở trong nhà cùng bố mẹ vui mừng chuẩn bị đón người khách được tin tưởng là với tính tình vui vẻ, rộng rãi, sẽ mang lại may mắn cho năm mới. Chú đóng bộ chỉnh tề, complet xám với cà vạt đỏ thắm, miệng tươi cười và kính cận gọng vàng lấp lánh ngoài sân. Nhưng chú không vào nhà ngay. Một phong pháo đỏ dài trên tay, chú còn tìm cách treo lên cành cây trước cửa. Chúng tôi ở trong nhà cười vui nhìn chú loay hoay bật lửa châm đốt. Tiếng pháo nổ giòn giã, xác pháo đỏ bay tung đầy sân. Bước qua khói và xác pháo, chú tươi cười vào nhà, mở chai sâm banh trên tay, rót mời bố mẹ tôi và bắt đầu chúc Tết: “Năm mới em xin chúc anh chị một năm nhiều sức khỏe và vạn sự như ý …”  Giọng chú to, vui tươi và ấm. Chúng tôi cũng mỗi đứa được chú cho nhấp một ngụm nhỏ, trước khi nhận phong bao và lời chúc của chú. Làm xong nhiệm vụ vinh dự, chú ngồi cắn hạt dưa, uống trà và ăn vài miếng mứt cùng bố mẹ tôi rồi mới lên xe ra về. Tối mai cũng với chiếc xe này, chú sẽ chất tất cả vợ con lên đấy:  hai đứa nhỏ đứng trước, đứa bé nhất thím tôi bế ngồi sau, để cả gia đình đến chúc Tết và ở chơi với chúng tôi.

Nhìn chú gà trống hiên ngang, da vàng óng ả nằm gọn trong lòng đĩa, miếng tiết tròn màu nâu phơi trên lưng, mắt nhắm lim dim, mỏ ngậm bông hoa cẩm chướng đỏ ngước lên trời đón ông Táo, tôi thấy lòng lâng lâng vui sướng. Hồn Xuân phảng phất trong gió, hương Xuân thoang thoảng trong không gian.  Một năm cũ vừa qua, một năm mới sắp đến.  Xuân đến với bao nhiêu là bao nhiêu là bánh kẹo, quần áo đẹp và tiền lì xì, nhưng quan trọng hơn cả: thời gian càng qua nhanh, tôi càng bước gần đến tuổi được làm người lớn!

 Mẹ tôi mất năm 1974.  Trước ngày người dân  miền Nam di tản một tháng thì chú mất. Chú uống cà phê rất đậm và hút mỗi ngày hai gói Basto từ ngày còn trẻ. Vì thế chú bị ung thư phổi. Những ngày chú nằm ở bệnh viện Grall, vào thăm chú tôi không khỏi ứa nước mắt.  Tôi cầm tay chú, chú ngước mắt nhìn tôi bảo: “Đau lắm Yến ạ”.  Tôi không biết làm sao để chia sẻ cái đau với chú được… Khi mẹ tôi mất, cả một khu nghĩa trang rộng lớn đã đầy kín mộ bia. Chỉ duy nhất còn miếng đất sát chân mẹ còn trống. Mọi người đi đưa tiễn mẹ đều bảo rằng mẹ để dành cho chú.

Những người muôn năm cũ


Hồn ở đâu bây giờ?

……

Mỗi lần Tết đến, tôi lại nghĩ tới bài thơ gợi nhớ không khí Tết của ngày xưa ấy, đến những người muôn năm cũ thân thương trong lòng tôi.

Đọc phần 1 “Tết ngày xưa con bé”

Đọc phần 2 “Tết ngày xưa – những món ngon của mẹ”

Bài: Yến Chi

logo
 

Thực hiện: depweb

11/02/2015, 15:44