Gần nửa tháng lang thang dọc dãy núi rừng Trường Sơn một thời máu lửa, chúng tôi đã được nghe, được chứng kiến biết bao số phận đau thương, bao câu chuyện kì bí, bao nghị lực phi thường. Nhưng câu chuyện về một bản làng mà ở đó người dân quanh năm… ở trần, khiến chúng tôi tò mò hơn cả. Vậy là không quản khó khăn, chúng tôi quyết định băng rừng, vượt núi tìm đến Tà Rụt, huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị để “diện kiến” bộ tộc đó…
Gian nan đường đến Tà Rụt
Từ huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên – Huế, chúng tôi xuôi theo đường mòn 14 (đường Hồ Chí Minh), khắc khổ, oằn mình vắt qua những dãy núi như những dải lụa ẩn hiện trong sương mờ. Bên cạnh đó, thời tiết rừng Trường Sơn cũng thật khó đoán, chẳng khác gì những đứa con gái mới lớn thích đỏng đảnh. Có khi đang nắng ấm, nhưng chỉ chưa đầy 10 phút sau lại mưa nhễ nhại, mưa như trút. Điều này được minh chứng trong hai câu thơ của Tố Hữu: Trường Sơn Đông nắng, Tây mưa/ Ai chưa đến đó thì chưa rõ mình.
Hơn 89km, với con đường quanh co, khúc khuỷu, uốn lượn theo sườn núi, bám theo dòng sông Đakrông. Nước sông mùa này không nhiều, thậm chí cạn ráo để trơ những lèn đá liêu xiêu hay những bãi cuội vàng ươm xen kẽ cây bụi lúp xúp. Hai bên sườn núi dựng đứng cao vút, bỗng thấy mình lọt thỏm giữa đại ngàn trùng điệp, núi tiếp núi lô nhô, sừng sững. Con đường sáng lên màu xám bạc tựa như con rồng con rắn uốn mình, lúc lên, lúc xuống. Có những đoạn đường nằm chênh vênh tưởng như đang treo bên sườn núi, sườn đổ xuống phía sông dốc sâu thăm thẳm. Lúc sương mù, mưa phùn trắng xóa, thoáng rùng mình khi con đường vắng tanh, thỉnh thoảng mới có người phóng xe, xé gió tạt qua.
Nhìn những vách núi dựng đứng, bên cạnh là những vực sâu hun hút, chúng tôi không khỏi rùng mình ái ngại khi những cơn mưa bất chợt ập đến, trong khi đó mọi người bảo đoạn đường này thường xuyên xảy ra tình trạng lở núi, đá rơi. Chiếc xe chúng tôi đi vừa ì ạch vượt qua đèo Peeke với độ dài hơn 8km, bốc mùi khét lẹt, vội chuyển sang đổ đèo sâu hun hút. Bỗng trước mặt có đoạn đường lở, tôi vội vàng giảm ga, về số, phanh cả 2 phanh và ngả cả người, cả xe vào vách núi để tránh rơi tõm xuống vực. Hút chết…
Vượt qua bao khó khăn, nguy nan, cuối cùng chúng tôi cũng đến được Tà Rụt. Tà Rụt nằm lọt thỏm giữa bốn bề mây trắng, như một ốc đảo thấp thoáng trong sương mù. Nhưng chúng tôi bỗng giật mình bởi 2 bên vệ đường, những ngôi nhà được xây kiên cố, hàng quán phát triển, quán nhậu, quán cà phê, quán karaoke, quán bán tạp hóa, bán hàng điện tử, tiệm may, xe cộ nườm nượp, loa đài xập xình, cột ăng-ten của viễn thông cao vút chẳng khác gì thị trấn, thị tứ dưới xuôi. Giữa đường mấy con dê vẫn chạy nghênh ngang, miệng gọi nhau be be…
Mấy sơn nữ Pa Cô vẫn mang achói (gùi), miệng ngậm tẩu thuốc nhưng áo và xấn thì lại làm bằng vải người Kinh đưa lên, chỉ vài người mang xấn thổ cẩm. Quả thực, nếu như nghe thông tin về “bộ tộc” của người khác mà chứng kiến cảnh này, chắc chắn chúng tôi sẽ quay trở về vì… thất vọng. Nhưng, đó là thông tin của ông bạn thân hữu, nhiều năm lặn lội trong vùng rừng núi này nên tôi cố nán lại hỏi cho rõ sự tình. Tấp vào quán nước vệ đường, gọi chai nước uống, tôi mạnh dạn hỏi: “Cháu tưởng đây nghèo lắm, hóa ra phát triển quá nhỉ. Vậy mà mọi người cứ đồn đại, đến quần áo không có mà mặc, mọi người toàn ở trần”. Người đàn ông ngoài tứ tuần cười khỉnh: “chỉ được tí ngoài mặt đường thôi, các anh cứ đi sâu vào trong bản khoảng trăm mét thì là một thế giới khác rồi. Bản… ở trần các anh cần tìm đó”.
Chuyện những người không thích… mặc áo
Đang thất vọng, nghe được thông tin quý báu, chúng tôi vội gửi tiền, quay xe vào bản… ở trần. Vượt qua những ngôi nhà khang trang, men theo con đường đất nhầy nhụa mà người dân chỉ dẫn, chúng tôi tiến sâu vào bản. Dọc 2 bên đường, những ngôi nhà sàn lúp xúp nằm rải rác bên sườn đồi, vài đứa trẻ trần truồng đen nhẻm, đứa lại quần áo lếch thếch bẩn thỉu chơi bên hiên nhà đưa ánh mắt lạ lẫm nhìn chúng tôi dò xét. Bên ô cửa sổ, vài cụ già ở trần, ngồi trầm mặc, nhìn xa xăm như nghĩ ngợi điều gì.
Hít một hơi dài, chúng tôi giậm chân, bước vào ngôi nhà sàn khá rộng lớn đang có nhiều người trò chuyện. Bên bếp tro tàn, khoảng 6 người đang ngồi trò chuyện vui vẻ. Trong đó 4 người phụ nữ, người ít tuổi nhất khoảng 30 tuổi, còn người nhiều tuổi nhất ngoài 70 đều ở trần, 2 người đàn ông thì đóng khố. Thấy khách lạ, một người tuổi ngoài 70 tự xưng là chủ nhà mời chúng tôi vào ngồi cùng. Hỏi ra mới biết, bà tên Kăn Giêng ở bản Tà Rụt 2, và những người xung quanh đều là con cháu và hàng xóm của bà.
Khi chúng tôi hỏi, vì sao bây giờ kinh tế đã no đủ, người dân vẫn đóng khố, ở trần? Bà Kăn Giêng vui vẻ trả lời: Đúng là hiện nay người dân nơi đây đã no đủ, tuy nhiên, nhiều người vì quen ở trần rồi nên khi mặc quần áo vào thấy bứt rứt khó chịu. Còn nhớ vài chục năm trước, người dân nơi đây từ trẻ đến già đều đóng khố, ở trần hết. Bây giờ người dân có điều kiện và được tiếp xúc với “thế giới hiện đại” nên cũng ý thức được nhiều điều. Chẳng hạn khi ra ngoài thì phải mặc quần áo cho “đỡ phản cảm”, còn ở nhà, nếu mọi người thích thì cứ ở trần. Những cô gái trẻ, chưa chồng, họ đều mặc quần áo, không ai ở trần cả. Mùa này là mùa lạnh nên ít người ở trần chứ vào mùa hè, gió Lào thì muốn tìm được người phụ nữ nào trên 30 tuổi mặc áo mới khó.
Chia tay Kăn Giêng, chúng tôi tiếp tục đi sâu vào trong bản, người đàn ông mặc khố, mình trần đang phăm phăm cuốc đất. Đó là ông Ko Nam (80 tuổi), ông có nước da rắn rỏi, cơ bắp cuồn cuộn, khỏe mạnh. Gặp chúng tôi, ông nghỉ tay trò chuyện, ông bảo: “Tôi thường làm những công việc nặng nhọc, ra mồ hôi nhiều, chính vì vậy mà tôi không thích mặc quần áo vì rất vướng víu và nóng bức. Mặt khác, từ nhỏ tôi đã quen với việc cởi trần rồi, giờ mặc áo thấy khó chịu. Giờ xã hội văn minh hơn, nhưng tôi cũng chỉ cần may một bộ quần áo dài, để khi đi đâu thì mặc thôi…
Trao đổi với chúng tôi, ông Kray Sức, cán bộ văn hóa xã Tà Rụt cho biết: Tà Rụt là nơi sinh sống của dân tộc Pa Cô, Tà Ôi, Kinh… Trong đó người Pa Cô chiếm tỉ lệ nhiều nhất và cũng là người thích ở trần như mọi người. Người Pa Cô thường tập trung sinh sống trong các bản làng cách xa trung tâm xã.
Chiều về muộn, những cơn mưa phùn bất ngờ ập đến, lạnh lẽo. Trong những ngôi nhà sàn bên cạnh bếp đỏ lửa, những người đàn bà mặc váy, mình trần, những người đàn ông đóng khố, nói chuyện vui vẻ. Thấp thoáng bên ánh lửa, chúng tôi chỉ thấy họ thật đẹp, thật ấm cúng, hạnh phúc mà không hề có một ý nghĩ trần tục. Bên ngoài, từng cột khói mang hình thù kì lạ, lững lờ bay ra từ khu bếp. Khiến chúng tôi có tâm trạng lạ kỳ, dường như câu nói “người đẹp vì lụa…” không hẳn lúc nào cũng đúng.
Ngọc An (theo NĐ & ĐS)