Chuyện 15 năm…
Cách đây 15 năm, một ca sĩ có tên Đan Trường xuất hiện, ngay lập tức nổi lên với tốc độ của một quả tên lửa trên thị trường nhạc Việt. Nói về Đan Trường là phải nói về lực lượng fan hùng hậu, các MV tràn ngập cảnh fan tuổi teen cầm biểu ngữ hò hét khản cổ lạc giọng, chen lấn xô đẩy ngất lên ngất xuống mỗi khi nhìn thấy thần tượng của mình. Trên thực tế, các cảnh tượng hoành tráng xúc động ấy được copy công thức từ trời Tây, công nghệ lăng xê từng áp dụng cho các thần tượng âm nhạc đích thực như Beatles, Rolling Stones… và được ông hoàng nhạc Pop Michael Jackson cùng các cộng sự trong ê kíp truyền thông của mình đẩy lên thành một thứ nghệ thuật xây dựng thần tượng thượng thừa. Các fan club đông đảo của Đan Trường (hay những nghệ sĩ sau này áp dụng công thức của anh), ban đầu được xây dựng và tập hợp bằng nguồn kinh phí của bầu show (thay vì từ tự thân sự yêu thích thực sự của các fan hâm mộ), đã giúp cho những cái tên mới xuất hiện rút ngắn tối đa con đường đi tới sự nổi tiếng của một ngôi sao mà nếu đi theo con đường cổ điển phải mất nhiều năm, hoặc có thể không bao giờ đến – với khả năng chuyên môn thực sự rất đỗi bình thường của họ.
Không ngần ngại nói rằng, sẽ không bao giờ có được cái tên Đan Trường nếu không nhắc đến một cái tên khác: Tuấn Thaso. Có thể coi Tuấn Thaso chính là một ông bầu đúng nghĩa đầu tiên và thành công nhất trong nền công nghiệp giải trí Việt Nam còn non trẻ. Ông áp dụng thứ công nghệ lăng xê giống như cách của các boyband trên thế giới thời điểm bấy giờ. Cập nhật học hỏi đúng kiểu của những con người đến từ một “vùng trũng” của nền công nghiệp giải trí, thông qua quan sát băng đĩa video, DVD, sách báo… thay vì được đào tạo bài bản – Tuấn Thaso từ một người kinh doanh đã tạo ra không chỉ một cái tên “nóng bỏng” trên mặt báo, mà còn xây dựng cả một sự nghiệp cho Đan Trường với những quy tắc được áp dụng một cách bài bản, bền bỉ, lâu dài và kiên định, có hệ thống quản lý hoạch định rõ ràng – điều mà gần như tất cả những bầu show sau này đều không thể làm được, hoặc làm không đến nơi đến chốn với những nghệ sĩ mà họ quản lý. Kết quả là Đan Trường không chỉ thành công về sự nghiệp, mà cả về lĩnh vực thương mại. Chắc chắn tài sản của “thương hiệu” Đan Trường không thua kém bất kỳ một cái tên hàng đầu nào trong lĩnh vực giải trí đương đại.
Với Đan Trường ở thời điểm những năm cuối 1990, Tuấn Thaso đã áp dụng những nguyên tắc đi trước thời đại trong công việc quản lý và xây dựng hình tượng cho một ngôi sao. Cảnh khán giả xếp hàng dài cầm gấu bông, biểu ngữ, khóc lóc luôn được xếp đặt như một “background” cho mọi cơ hội xuất hiện trước truyền thông và công chúng của Đan Trường, (không ai có thể coi thường một ca sĩ với fan club lên tới 72.000 người). Đan Trường suốt 1 thập kỷ gần như không bao giờ tiếp xúc trực tiếp với truyền thông, mọi phát ngôn đều thông qua Tuấn Thaso, các chiến dịch truyền thông cho hình ảnh và các sản phẩm âm nhạc được chuẩn bị một cách bài bản tạo hiệu ứng không kém gì cách thức của các boyband, girlband thế giới (nhưng uyển chuyển điều chỉnh theo cách của Việt Nam, phù hợp với thị trường Việt Nam). Tuấn Thaso đã rất tỉnh táo khi từ chối cách áp dụng mù quáng tất cả mọi thứ học hỏi được từ nước ngoài và đã tránh được thất bại như một vài trường hợp ở thời điểm đó (cũng như không thiếu các trường hợp ở thời điểm này).
… và 9 tháng
Sau 15 năm, vào giữa 2012, thị trường giải trí tiếp tục xuất hiện một cái tên: Phạm Thu Hà! Có thể khẳng định trước đó chưa ai biết đến cái tên này. Không một dòng thông tin, ban đầu những cái tên quyền lực nhất của truyền thông khi tiếp xúc đều chung nhận định: một ca khó. Lớn tuổi so với một ca sĩ mới xuất hiện, nhan sắc không có gì đặc biệt, giọng hát được đào tạo bài bản nhưng không phải là quý hiếm… Sau những nhận xét đó là… những cái lắc đầu từ chối hợp tác, có những người thì gợi ý con đường duy nhất để cái tên này được biết đến nhanh nhất – có lẽ là cần một scandal!
9 tháng sau đó, Phạm Thu Hà đứng trên sân khấu của giải Cống Hiến (một giải được đánh giá cao về uy tín, được bình chọn bởi các phóng viên chuyên trách mảng âm nhạc) và đàng hoàng nhận giải thưởng quan trọng: Album của năm, giải thưởng không ít nghệ sỹ thành danh mơ ước mà chưa bao giờ chạm tới. Đã có rất nhiều câu hỏi về cách Phạm Thu Hà đi đến thành công nhanh chóng, có cả một số dị nghị không thiện cảm xung quanh giải thưởng của cô. Cũng như câu hỏi với trường hợp của Đan Trường, điều gì đã làm nên sự thành công của cái tên Phạm Thu Hà (cho dù đó chỉ là bước đầu, chưa thể đặt lên bàn cân so sánh với sự nghiệp của Đan Trường, kể cả trong trường hợp Hà đã đạt được giải thưởng mà Đan Trường chắc chắn rất mong muốn nhận được trong suốt sự nghiệp của mình)?
Vậy điểm chung của hai cái tên xuất hiện trên thị trường giải trí Việt cách nhau 15 năm là gì? Chính là tư duy về cách quản lý và xây dựng sự nghiệp cấp tiến cho một nghệ sĩ ở thời điểm mà họ xuất hiện: cả hai đều chọn cách phù hợp với bản thân nghệ sĩ, với thị trường ở thời điểm đó, quan trọng nhất là có nguyên tắc và kiên định với nguyên tắc.
Với Phạm Thu Hà, những gì các nhân vật quyền lực của truyền thông đã nhận định không hề sai, Hà không phải một ca khó mà là “quá khó”. Ở Hà chỉ có hai thứ thuận lợi, chính là… sự vô danh trước đó; và việc đã chọn đúng công ty quản lý cho mình. Điểm mạnh của công ty này là năng lực với những sản phẩm nghệ thuật tử tế và quan hệ tốt đẹp với truyền thông. Vì vậy khi thiết lập cho Hà một ê kíp, đã có những cái tên hàng đầu nhận lời để sẵn sàng bắt tay vào một thử thách.
Cách dành cho Hà ngược lại hoàn toàn với cách Tuấn Thaso đã tạo ra Đan Trường: không gấu bông, không fan club, không trống rong cờ mở, cũng không có những câu chuyện quần áo, xe hơi đắt tiền hay MV tiền tỉ…, những điều đang tràn ngập và gần như là quy luật tất yếu phải có của truyền thông hiện đại khi một cái tên cần được biết đến với tốc độ nhanh nhất. Tất cả thông tin về Hà chỉ là sự im lặng kín đáo, thận trọng đi ngược lại hoàn toàn những nguyên tắc của truyền thông hiện tại. Thậm chí, ngay từ đầu ê kíp đã thống nhất với Hà một điều kiện: muốn nhanh thì phải… từ từ. Mọi bài báo phỏng vấn Hà đều được kiểm soát chặt chẽ để phát ngôn và tính định hướng được nhất quán, những lần xuất hiện của Hà đều được tính toán kỹ theo một trình tự thời gian. Kể cả chuyện mặc gì, mặc như thế nào cho phù hợp cũng được kiểm soát rất khắt khe, vì Hà không phải không thể mua được quần áo của các hãng lớn, nhưng không cẩn trọng những thứ đó sẽ làm cho mọi người tập trung vào quần áo, thay vì cần phải tập trung vào chuyên môn chính của Hà là âm nhạc.
Nếu lật lại toàn bộ quá trình xuất hiện của Hà cho đến thời điểm bài viết này được in, không hề có bất kỳ một bài phỏng vấn nào với nội dung về những chuyện bên lề (vì đây rõ ràng không phải là thế mạnh của Hà), mà hoàn toàn chỉ tập trung vào chuyên môn để tạo cho khán giả cảm giác “cô ấy (Phạm Thu Hà) là một con người của chuyên môn”. Hình ảnh của Hà tuy được chăm sóc rất kỹ (từ thiết kế website, MV, bìa đĩa được làm kỳ công và quản lý đồng bộ), nhưng không được tung ra với những thông tin “khủng” về tài chính (bởi chắc chắn sẽ “khuyến mại” kèm cả những thị phi bên lề).
Một thuận lợi chủ chốt của Phạm Thu Hà mà ê kíp quản lý đã nhìn ra, đó là THỜI ĐIỂM. Hà chỉ cần xuất hiện trước một năm vào 2011 (năm của những “con khủng long” như: Tùng Dương, Tấn Minh, Lê Cát Trọng Lý), hay chậm hơn một năm (2013 dự báo lại là: Tùng Dương, Hà Trần, Mỹ Linh… với một loạt các dự án âm nhạc đang được giấu kỹ chờ thời điểm gần cuối năm để bung ra) – chắc chắn album “Classic Meets Chillout” và Phạm Thu Hà “không có cửa”. Năm 2012 có lẽ là một cơ hội không thể thuận lợi hơn cho một cái tên quá mới, khi thị trường ít các sản phẩm âm nhạc nổi bật và thực sự có chất lượng, các tên tuổi lớn nghỉ giải lao giữa hiệp, những tên mới chưa đủ sức nặng, sự mất thiêng của các ngôi sao thành danh từ các chương trình truyền hình thực tế… Nói ra như vậy không phải để hạ thấp thành công của Hà, mà để nhìn thấy rằng trong bất kỳ thành công nào, yếu tố nhận biết – phán đoán – xuất hiện đúng thời điểm là vô cùng quan trọng. Bỏ qua cơ hội ấy có thể những cơ hội khác sẽ không bao giờ xuất hiện. Nhận biết đúng thời điểm, chọn đúng phương án tiếp cận vấn đề, đưa ra được những giải pháp phù hợp với khả năng và con người – đó chính là “công thức” thành công của trường hợp Phạm Thu Hà.
Sau 15 năm, một lần nữa xuất hiện một cái tên thành công (bước đầu) bởi cái gọi là công nghệ quản lý và đào tạo nghệ sĩ. Chỉ có điều khác biệt là nền công nghiệp âm nhạc đã thay đổi rất nhiều, cách làm, cách tiếp cận cũng khác rất nhiều. Với Đan Trường là kiểu “du kích” nhưng rất thông minh, hợp người hợp cảnh của một người “đốt đuốc mở đường” trong một thế giới thông tin bắt đầu mở cửa và được cập nhật. 15 năm sau là cách làm được đúc kết và quan sát bởi những thành công và thất bại đã có sẵn tại đúng thị trường này, cộng với sự tham khảo từ nền công nghiệp giải trí khổng lồ của thế giới, với những quan sát được cập nhật từ thế giới thông tin rộng lớn để tìm ra một công thức “đúng nhất” cho cá nhân nghệ sĩ ở thời điểm đó.
Những dị nghị quanh giải thưởng của Phạm Thu Hà là điều đương nhiên, bởi như một thông lệ, hầu hết các giải thưởng đều có những thêu dệt thị phi ngoài lề về màn “lobby”. Còn nhớ, cách lễ trao giải Oscar vài tuần trên báo Thể thao & Văn hóa có một bài viết về việc có hay không chuyện “lobby” tại các giải thưởng danh giá trên thế giới, và việc đó có đáng bị gọi là tiêu cực? Một sự thực là không có bất kỳ giải thưởng nào, từ Oscar, Grammy, Billboards… mà không có việc vận động hậu trường, (ngay cả bầu cử tổng thống cũng cần có “lobby”, ban vận động và quyên góp quỹ bầu cử). Vậy việc “lobby” có xấu không? Xin thưa, nếu được làm đúng cách, đúng bài bản thì việc “lobby” là mang tính sống còn đối với vận mệnh của các hãng thu âm, băng đĩa và các nghệ sĩ.
Cần phải hiểu rằng vận động bỏ phiếu ở đây là tìm cơ hội cho những sản phẩm tốt mà thị trường có được, chứ không phải để đưa một sản phẩm tồi vào danh sách đề cử lẫn lộn với các sản phẩm tốt. Bản thân các hãng sản xuất, đạo diễn, ê kíp quản lý… ý thức được rằng, sản phẩm của họ dù tốt đến mấy nhưng ở trong một rừng những thứ “oách nhất”, nếu không thật sự thuyết phục được các thành viên của hội đồng xét duyệt, thì không có cách gì để sản phẩm của họ được có mặt dù chỉ trong những đề cử cuối cùng, chứ chưa nói gì đến việc đoạt giải. Và các hội đồng thẩm định đó cũng không đời nào để thanh danh của mình bị hoen ố, nếu để ai đó dùng sức mạnh của chuyện vận động đưa vào danh sách đề cử giải thưởng những sản phẩm không đủ chất lượng.
Có thể nói với sự phát triển của nền công nghiệp giải trí hiện đại, sẽ không còn chỗ (và cơ hội) cho những ngôi sao tự phát. Các nghệ sĩ cần những nhà quản lý nghệ thuật, quản lý tài chính với tư duy hiện đại để thay thế cho khái niệm bầu show không hề có hệ thống, chỉ dựa vào chủ nghĩa kinh nghiệm và cách làm du kích nhỏ lẻ. Các ông bầu – người quản lý nghệ sĩ là quyền lực thực sự cần thiết, bởi họ tạo ra những bước ngoặt của công nghiệp giải trí, thông qua từng bước tính toán khoa học và thông minh. Để giúp cho các nghệ sĩ, hay xa hơn là cho nền công nghiệp giải trí nội địa một ngày nào đó có thể nhìn sang nền công nghiệp quản lý và đào tạo nghệ sĩ trị giá 6.000 tỉ won của K-Pop; hay xa hơn nữa là cái nôi của nền công nghiệp giải trí toàn nhân loại: “American Dream” – những nơi mà công nghiệp quản lý quyết định việc nghệ sĩ được ngồi vào “chiếc ghế” nào, và năng lực tự thân sẽ quyết định việc họ ngồi đó… trong bao lâu.
Bài: Thiên Hạ