Trong lúc này các mặt hàng thiết yếu lại đồng loạt tăng giá, sẽ tác động đến niềm tin, khiến người tiêu dùng càng thắt chặt chi tiêu hơn, dẫn đến sức mua thời gian tới sẽ bị tác động, nhiều sản phẩm sẽ càng khó khăn hơn khi doanh số giảm.
Theo ông Phạm chí Cường, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, việc tăng giá điện thêm 5% vào cuối tháng 6/2012 vừa qua cũng tăng thêm mối lo cho nhiều DN thép. Theo tính toán, giá điện hiện chiếm 6% -7% giá thành sản xuất của các DN thép. Để làm ra 1 tấn thép phải sử dụng khoảng 600kWh. Với giá điện tăng 5% sẽ làm đội giá thành sản phẩm lên ít nhất 39.000 đồng/tấn. Tính bình quân một DN sản xuất 40.000 tấn thép/tháng thì riêng chi phí tiền điện tăng thêm 1,56 tỷ đồng/tháng. Trong khi giá thép không tăng, ngược lại còn giảm, thì chi phí đầu vào không ngừng tăng, khiến DN thép càng thêm khó khăn.
Nguy cơ từ “bơm” tiền?
Tiến sỹ Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, dự báo lạm phát cả năm chỉ từ 4,6% đến 6%. Nếu tín dụng từ nay đến cuối năm mỗi tháng tăng 1,5% (tương đương 6 tháng là 9%) thì tăng trưởng GDP của cả năm 2012 từ 5,3-5,4%. Với mức này, lạm phát 5 tháng sau đó từ 0,5-1% mỗi tháng. Nếu tín dụng là 2%/tháng thì 6 tháng, cuối năm sẽ là 12%, GDP cả năm 2012 có thể đạt 5,5-5,6%. Tuy nhiên, như vậy nguy cơ lạm phát sẽ quay trở lại 5 tháng sau đó.
Tiến sỹ Nghĩa cho biết, tăng trưởng tín dụng có thể là 17% nhưng nếu chia đều cho 12 tháng thì lạm phát sẽ rất thấp. Ngược lại, nếu tăng trưởng tín dụng chỉ là 12% nhưng lại chỉ trong 6 tháng thì vô cùng nguy hiểm, nền kinh tế không hấp thụ hết lượng tiền mặt dư thừa và như vậy lạm phát sẽ trở lại.
Theo ông Cao Sỹ Kiêm, trước đây, Chính phủ có đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2012 là 12%. Nhưng như đã biết 6 tháng đầu năm tăng trưởng tín dụng âm, vì vậy nếu giữ nguyên mức này thì 6 tháng cuối năm, mỗi tháng phải đạt kế hoạch 2%, tương đương với việc các ngân hàng phải cung cấp mỗi tháng 50.000 tỷ đồng, tức là tổng cộng 300.000 tỷ đồng. Cộng với ngân sách cung cấp cho đầu tư công khoảng 21.000 tỷ đồng nữa.
Nhưng theo tính toán hiện nay nền kinh tế không hấp thụ được mức tăng trưởng tín dụng 12%. Nếu cứ đẩy mạnh cung tiền thì chắc chắn lạm phát sẽ quay trở lại vào 2013. Ngân hàng Nhà nước cũng đã giảm chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống năm nay, phấn đấu khoảng 8-10%, chứ không để cao như trước.
Theo ông Kiêm, 7 tháng vừa qua tín dụng tăng trưởng rất thấp, tính đến ngày 25/7 mới chỉ ở mức 0,57%. Tín dụng tăng trưởng thấp là do nợ xấu cao. Khi chưa giải quyết được vấn đề nợ xấu thì các ngân hàng sẽ chơi bài thắt chặt tín dụng hoặc cho vay với lãi suất cao, khiến tín dụng không thể bung mạnh được.
Từ nay đến cuối năm, còn 5 tháng nữa. Việc giải ngân vốn ngân sách mỗi tháng khoảng 21.000 tỷ đồng cộng với tín dụng được khoảng 20.000 tỷ đồng/ tháng nữa, thì không quan ngại đến lạm phát, ông Kiêm nói.
Theo ông Cấn Văn Lực, chuyên gia từ Ngân hàng BIDV, 5 tháng còn lại, các ngân hàng cũng đang đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, ước tính mỗi tháng khoảng 1%, cộng với giải ngân đầu tư công trên 100.000 tỷ đồng thì lạm phát chưa thể quay lại.
Vấn đề mà các chuyên gia lo ngại đó là sự “dồn toa” trong giải ngân. Nếu tín dụng vẫn tăng trưởng chậm trong vòng 2 tháng tới, sau đó lại bung mạnh vào 3 tháng cuối năm, thì rất có thể sẽ châm ngòi cho lạm phát quay trở lại.
Trao đổi với VEF, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh cho biết, việc giải ngân bao nhiêu cần phải căn cứ vào năng lực hấp thụ vốn của nền kinh tế, việc giải ngân phải bảo đảm có hiệu quả, không nên bằng mọi cách “tiêu” hết số tiền trên mà không đảm bảo tính hiệu quả thì lạm phát sẽ cao.
Theo ông Cao Sỹ Kiêm, nền kinh tế hiện nay rất khó khăn, nếu không rót tiền sẽ khựng lại, đặc biệt là sản xuất kinh doanh. Khi có tiền, các dự án sẽ tiếp tục triển khai thực hiện, tạo ra việc làm, tạo ra sức mua giúp DN thực hiện được dự án và vượt qua khó khăn. Khi hàng hóa được tung ra nhiều, giá cả ổn định thì nó còn có tác dụng kìm chế lạm phát. Nhưng nếu rót không trúng, tiền không đưa vào sản xuất mà chạy lòng vòng thì lạm phát sẽ quay trở lại.