Báo lãi to, che nợ lớn
Về lý, tỷ trọng nợ xấu có liên quan đến thị phần tín dụng. Thị phần càng lớn, thì miếng bánh nợ xấu càng lớn. Nhưng xem kỹ hơn một chút, khối các NH TM quốc doanh với thị phần tín dụng chỉ xấp xỉ 40%, nhưng chiếm tới hơn nửa số nợ xấu. Trong khi đó, Với các NH TM cổ phần đứng đầu về thị phần tín dụng với 50,64% nhưng nợ xấu chỉ 27,8%. Với các NH nước ngoài, với 10,7% thị phần tín dụng nhưng nợ xấu chỉ chiếm 4,2%.
Một chuyên gia ngành NH cho rằng: Từ khi mở cửa thị trường tài chính, theo đó là sự ra đời của các NH TM cổ phần, các NH liên doanh… các NH TM quốc doanh bị chảy máu chất xám. Những nhân lực có chất lượng cao đã tìm bến đỗ mới ở các NH TM ngoài khối quốc doanh, với những ưu đãi về chế độ tiền lương. Hơn thế là môi trường làm việc, là cơ hội thăng tiến…
Ép DN, NH hại mình
Không chỉ chảy máu chất xám, khối NH TM nhà nước còn chịu sự xâm nhập của những nguồn nhân lực không kiểm soát nổi chất lượng. Dẫu rằng, với các NH TM cũng ban hành đầy đủ các quy trình tuyển chọn cán bộ với những tiêu chí cao ngất trời, nhưng “trăm cái lý không bằng tý cái tình”, nên cái quy luật đã nói ở trên vẫn nghiễm nhiên tồn tại. Với thực tế nguồn nhân lực ấy lại thêm sự chi phối của quan hệ lợi ích khi thẩm định các dự án, các NH thương mại NN đã bị “dính đòn” nhiều hơn khi thị trường có diễn biến xấu.
Về mặt lý thuyết, cán bộ tín dụng NH phải có năng lực phân tích và đánh giá chính xác mức sinh lời của các dự án cũng như phòng ngừa trước được những rủi ro có thể xẩy ra. Cán bộ tín dụng phải có năng lực tư vấn cho các DN về thị trường, về sản phẩm, về khả năng thu hồi cả vốn lẫn lãi… Tuy nhiên, thực tế các cán bộ tín dụng quan tâm nhất là chỉ là tăng dư nợ tín dụng cho đủ chỉ tiêu và thu hồi vốn an toàn để khỏi vướng trách nhiệm.
Một DN vận tải sở hữu trong tay gần trăm đầu xe nhưng vốn tự có chỉ vài chục tỷ, phần còn lại được NH cho vay theo cách mua trả góp. Khi thị trường tốt, hàng tháng có doanh thu, cứ thế trả lãi và một phần gốc đều đặn theo tiến độ cho NH. Khi thị trường xấu, thời hạn trả gốc và lãi đến, nhưng không lo đủ vốn để trả nợ. Cán bộ tín dụng tư vấn là, “bác xoay tạm đâu đó trả nợ cũ, xong đó, bọn em sẽ cho vay tiếp”. Nghe lời, anh mang sổ đỏ ra vay lãi ngày của tín dụng đen. Sau khi trả đủ nợ cho NH, khoản vay mới không được duyệt, trong khi đó những khoản nợ vay nặng lãi cứ lãi mẹ đẻ lãi con, chủ nợ mang đầu gấu đến siết nhà, siết xe. Anh trở thành kẻ trắng tay.
Trong nền kinh tế thị trường, các NHTM chỉ có thể “sống” được khi hoạt động SXKD của DN có hiệu quả và phát triển. Khi thị trường xấu, các DN lâm vào hoàn cảnh khó khăn, nợ đọng, nợ xấu tăng cao. Nếu các NH thương mại không có sự chia sẻ với các DN, chỉ mong được việc của mình, vô tình họ đang bóp nghẹt nguồn sống lâu dài của chính mình.
Trong bối cảnh u ám của nền kinh tế, khi những dự báo lạc quan nhất cũng chỉ có thể đưa ra con số tăng trưởng GDP xấp xỉ 6%/năm, trong khi đó mấy ông lớn NH vẫn khống chế mức lãi 15%/năm như một sự ban ơn.
Theo một nguồn tin từ VCCI, trong một năm qua, có khoảng 200 ngàn DN thua lỗ, phá sản và ngừng hoạt động. Ngoài những nguyên nhân khách quan về thị trường, trong đó có một phần rất quan trọng từ các NHTM, người được coi là “bà đỡ” cho các dự án sinh lợi. DN hông sống nổi, các NHTM lâm vào khó khăn. Trong cái đống nợ xấu mà các NHTM đang phải gánh, có một phần rất lớn từ chính sách tài chính tiền tệ. Trong đó các ông chủ nhà bank không thể vô can.