Dạo cuối thập niên 90 thế kỷ trước, nổi lên phong trào nhạc đương đại, hết boyband- girlband đến “cuộc chiến” thầm lặng giữa Brit và Chris. Lứa choai choai thường tranh cãi về vị thế và tương lai của hai cô công chúa này: “Britney đẹp hơn”; “Nhưng Aguilera hát hay hơn”…
Phải mất một thời gian người ta mới nhận chân, hóa ra chẳng có cuộc chiến nào hết, mỗi nàng theo đuổi một chí hướng – một phong cách khác nhau. Công chúa Britney gợi cảm không bứt lên được. Những wannabe’s kiểu Brit cũng héo theo trào lưu.
Christina Aguilera thì ngày càng chín muồi, biến hóa không ngừng. Aguilera có một chất giọng mạnh mẽ (đôi khi hơi lên gân, nhất là khi nàng lạm dụng kỹ thuật), những bước nhảy ma lực và một phong cách toát lên vẻ sang trọng lấp lánh-cuốn hút như một thánh nữ. Nhắc đến X’tina, người ta thường nhắc đến những single hơn là album: Reflection (OST Mulan), Genie in the bottle, What a girl wants, I turn to you, Come on over baby,…
Ấn tượng tốt đẹp đầu tiên với thể loại pop và pop-dance chất lượng đã mang về cho Chris giải Grammy Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất năm 2000. Cô gái gốc Ireland và Ecuador còn chinh phục giới nghe nhạc Latin với album Mi Reflejo, thể nghiệm R&B trong Lady Mamalade (OST Moulin Rouge) hát chung với Pink, Mya và Lil’ Kim.
Làng âm nhạc thế giới giờ thuộc về thế hệ trẻ của Alicia Keys, Christina Aguilera, Delta Goodrem và Avril Lavinge. Đằng sau giọng hát và thành công của họ là nội lực. Họ đã hát hết mình. Trên trời có hàng triệu vì sao, có những ngôi sao sáng hơn, xanh hơn. Họ là những ngôi sao như thế.
Với phong cách hoàn toàn mới-tự tin, dữ dội, nóng bỏng-Christina Aguilera xuất hiện trong Stripped (2002) gây sóng gió dư luận. Dường như, có sự đảo lộn cảm nhận giá trị giữa các thế hệ. Giới phê bình chỉ trích. Giới nghe nhạc đẳng cấp cao vốn coi trọng tính “hàn lâm” trong âm nhạc của Aguilera cũng nhảy dựng lên.
Táo bạo hơn, Chris còn chụp ảnh khỏa thân trên Rolling Stone. Sửng sốt, song không ai không công nhận tài năng “làm nóng” của cô. Bằng chứng là Dirty” trong Stripped gây chấn động các bảng xếp hạng. Stripped được giới trẻ đón nhận nhiệt tình, bởi nó chân thật, bởi vì nó là Christina Aguilera.
Alicia Keys là sắc màu hoàn toàn khác. Nếu như X’tina là biểu tượng của sự sống động, kiêu kỳ, hơi hơi nguy hiểm, thì Alicia lạnh, trầm, hơi hơi không thực. Thế giới âm nhạc của Keys thoáng vẻ thâm u. Cả giọng hát cô cũng có chút gì mong manh, nhưng không phải là yếu mềm. Người ta nói Alicia Keys có tâm hồn của một người già, hàm ý sự khôn ngoan và kinh nghiệm trong lời ca, tiếng nhạc của cô.
14 tuổi, 7 năm học piano, Alicia đã bắt đầu sáng tác. Cô thân thiết với dương cầm như một người bạn. Piano & I là intro của album đầu tiên – Song in A Minor. Hãy nghe lại nó để có một cảm giác kỳ lạ khi bước chân vào thế giới âm nhạc của Keys. I keep on falling in and out of love, thống thiết và trong sáng, Keys hát chơi vơi, lúc nào cũng có vẻ không vững. Người nghe cứ thế rơi theo âm trầm âm bổng của cô và tiếng piano xa vắng.
Song in A Minor pha trộn nhiều phong cách jazz, hip hop, R&B, classical, chia cho những ca khúc rất hay như A woman’s worth, Jan Doe, Mr. Man, Fallin’, Caged bird, trong đó Fallin’ đã đem về cho Keys một giải Grammy.
Năm 2003, album thứ hai – The Diary of Alicia Keys ra đời, nhận Grammy cho album của năm. Tuy không vang xa như album đầu tay, Diary of Keys được đánh giá rất cao. Giọng hát thì vẫn vậy, song phong cách chuyên nghiệp hơn và hơi… khó nghe hơn nếu ai đó không phải là dân ghiền jazz và R&B. Karma, If I ain’t got you, Feeling me feeling you, Diary thật sự là những bài đặc sắc. The Diary of Keys có khả năng kéo trình độ thưởng thức của người nghe lên một cung bậc mới. Cảm giác lạ lẫm đầu tiên là không thể tránh khỏi, nhưng đương nhiên, có sức quyến rũ riêng của nó.
Gặp lại Delta Goodrem trong album mới Mistaken Identity sau hai năm là sự ngạc nhiên thú vị. Album xanh biếc, Delta ngâm mình trong dòng nước xanh, đôi mắt ẩn chứa một nỗi buồn xanh kiêu hãnh.
Từ album Innocent eyes (Đôi mắt ngây thơ), Delta là cô gái tròn 18 tuổi, giọng hát không đặc sắc nhưng rất dễ thương và truyền cảm. Mỗi khi cần một chút tự kỷ kiểu trẻ con, giá như được nghe My big mistake, Throw it away, Not me not I, hay Born to try – để trách mình một chút, trách người nhiều hơn, kiếm đủ tự tin trên mức cần thiết, rồi mọi chuyện tự nhiên sáng sủa ra.
Innocent eyes là một album màu vàng, non trẻ và đáng yêu. Bởi vậy, khi nghe Mistaken identity, không khỏi ngạc nhiên về sự trưởng thành trong âm nhạc (và âm nhạc là tâm hồn) của Delta Goodrem. Trong hai năm qua, cô ca sĩä người Australia này phải chống chọi với căn bệnh bạch cầu, ngốn đi của cô phần lớn sức lực, những tưởng đã phải buông xuôi. Nhưng trái lại, nó tiếp cho cô sức mạnh nội tâm lớn lao, cảm nhận mới về cuộc sống. Và Delta truyền sự trải nghiệm đó vào âm nhạc của mình…
Delta hát pop, thuần pop. Trong Mistaken identity ngập tràn sức sống mới mẻ tinh khôi này, giọng hát của Delta đã có cốt cách riêng – toát ra nội lực và sự quyến rũ! Miscommunication, Out of the blue, The analyst, Mistaken identity, Extraodinary day, Electric storm… như chuỗi liên kết những tiết tấu lạ, truyền cảm đến quên mình. Delta Goodrem không còn là cô bé giương đôi mắt ngây thơ nhìn cuộc sống. Giờ đây, cảm nhận cuộc sống bằng đôi mắt mang nỗi buồn kiêu hãnh, cô hát với lòng trăn trở và tri ân.
2002 là thời điểm “bùng nổ” của Avril Lavigne với Let go. Mắt kẻ tô quầng, tóc chẻ ngôi giữa, quần rộng thùng thình, tay ôm guitar điện, dáng vẻ lạnh lùng và cuồng nhiệt – Avril thành biểu tượng trong giới trẻ. 19 tuổi, album đầu tay tiêu thụ được 14 triệu bản, nhận đề cử 8 giải Grammy, Let go đặc sắc từ đầu đến cuối. Đó là thế giới của niềm vui, nước mắt, giận dữ, yếu đuối, đắc thắng, tự tin và cả sự tự ti của tuổi trẻ. Chất giọng mạnh mẽ mà trong như pha lê của Avril lắm lúc làm cho nỗi buồn và những giọt nước mắt chỉ-người-trẻ-mới-hiểu.
Hai năm sau, Under my skin ra đời. Avril lớn lên, âm nhạc của cô cũng phải lớn lên. Có lẽ hai năm của thành công – tai tiếng, cuộc sống gia đình đã làm cô nhóc “nổi loạn” Avril đằm thắm hơn, nữ tính hơn, cân bằng hơn. Sự mạnh mẽ bây giờ là sự mạnh mẽ của người đã học được cách cân bằng. Take me away, Who knows, Together, Forgotten đánh dấu sự trưởng thành và thay đổi của cô so với thời của Let go.
Không dám nói sâu sắc hơn, nhưng chắc chắn là sâu lắng hơn. 12 bài trong Under my skin đều do Avril đồng sáng tác. Dù cô đã học được nhiều về sự cân bằng thế nào đi nữa, thấp thoáng trong âm nhạc của cô vẫn còn bóng dáng con người nguyên thủy, hoang dã, không lẫn đâu được. Đó chính là nét đẹp của Avril Lavigne./.