Cô chủ tiệm trà mất ngủ vì mải nghĩ cách pha trà - Tạp chí Đẹp

Điều gì khiến chị chọn Tà Xùa là điểm đến với cây trà?
Tà Xùa không phải nơi duy nhất có cây trà mà tôi tìm đến, nhưng đó là nơi đầu tiên và cũng là nơi mang lại cho tôi nhiều kỷ niệm.

Khi bắt đầu biết đến trà Shan Tuyết, tôi đã thử nhiều thức trà Shan từ nhiều vùng khác nhau, nhưng lục trà Shan ở Tà Xùa thì luôn rất đặc biệt với những nốt vị ngậy béo và hương thảo mộc rất lạ, khó tìm thấy ở những vùng trà khác.

 Lúc đó tôi chỉ nghĩ trong đầu là phải đi thôi, đi càng nhiều càng tốt. Đi để xem cây trà sinh trưởng hoang dã tự nhiên, cây trà cổ thụ là như thế nào. Đi để biết người dân tộc họ làm trà như thế nào. Đi để biết vì sao trà ở Tà Xùa lại khác trà ở Hà Giang, ở Lào Cai… Đơn giản là tôi muốn được hiểu hơn về chén trà mà mình vẫn uống.

Đến được những vùng trà đó rồi, chị hiểu thêm điều gì?

Tôi hiểu hơn về sự quý giá mà mình đang có. Việt Nam là một trong số năm nước trên thế giới có những cây trà hoang dã cổ thụ, bên cạnh Trung Quốc, Myanmar, Lào và Thái Lan. Chúng ta đang sở hữu nguồn trà nguyên liệu quý giá và được thưởng thức trà với một mức giá rất rẻ. 

Khi đứng trước một cây trà cao lớn, chạm vào thân cây, nhấm thử vị tươi xanh chát khẽ của lá non, hít cái lạnh tê của sương trên núi cao, khi ngồi yên dưới một gốc trà… tôi mới thực sự thấy rằng thiên nhiên đã trao tặng cho mình nhiều điều quá. 

Tôi cũng nhận ra rằng làm trà là một công việc cực nhọc, để tạo ra một thức trà cần rất nhiều công sức của con người. Người ta phải trèo lên những cây trà cổ thụ cao lớn, tỉ mẩn hái từng búp từng lá, rồi chẻ củi nhóm lò, sao trà trên chảo từng đợt nhỏ để cho ra đời những mẻ trà làm hoàn toàn thủ công. Đợt lên đó tôi thấy trung bình mỗi ngày mọi người chỉ ngủ từ 3 đến 4 tiếng, thời gian còn lại đều dành cho việc làm trà.

Đơn giản là tôi muốn được hiểu hơn về chén trà mà mình vẫn uống.

Đơn giản là tôi muốn được hiểu hơn về chén trà mà mình vẫn uống.

Công việc cực nhọc và thiếu ngủ đó đã hấp dẫn chị sao?

Ban đầu thì chưa đâu, tôi chỉ muốn được là một người uống trà có hiểu biết, và tôi cũng có bạn trà tâm đầu ý hợp rồi nên không có nhu cầu đòi hỏi gì hơn cả. Nhưng có lẽ là nghề chọn người. Sau những chuyến đi đó, tôi bắt đầu chia sẻ một số bài viết về trà trên mạng xã hội, dần dà nhiều người hỏi tôi về trà, về những địa điểm chất lượng để mua trà, về các quán trà trong thành phố… Thế là tôi bàn với ông xã mở một quán nhỏ để chúng tôi có thể ngày ngày pha trà, trò chuyện với những người có cùng mối quan tâm, để đưa một chút – dù chỉ một chút – không khí dễ chịu từ những nương trà về thành phố.

Tearista có vẻ là một nghề mà phụ nữ chiếm lợi thế hơn hẳn nam giới?

Trước đây có lẽ đúng là như vậy. Trong văn hóa thưởng thức trà Á Đông, chúng ta hẳn đã quen với hình ảnh người phụ nữ duyên dáng trong bộ trang phục truyền thống, tỉ mẩn sắp chén bày ấm, rót nước pha trà… Sự dịu dàng, thanh nhã của người phụ nữ rất phù hợp với việc pha trà. 

Dù vậy, ngày nay ta có thể gặp rất nhiều người pha trà là nam giới và họ cũng bộc lộ nhiều ưu điểm riêng so với nữ giới. Chẳng hạn, đa số nam giới sẽ có tinh thần vững vàng, ít xao động về mặt cảm xúc hơn, nên quá trình pha trà cũng vì thế mà ổn định và chuyên nghiệp hơn.

Cá nhân tôi nghĩ rằng tearista là nghề không phân biệt giới tính. Mỗi quán trà lại có một ngôn ngữ, cá tính riêng, theo đó thì tính chất của tearista trong mỗi quán cũng khác nhau. Có những quán trà thiên hẳn về sự nữ tính nên các tearista thường sẽ là nữ. Có những quán trà trung tính hơn, họ sẽ chọn tearista bao gồm cả nam và nữ. 

Cuối cùng thì chất lượng của chén trà mà ta uống vẫn quan trọng hơn việc người pha trà thuộc giới tính nào phải không?

Công việc cực nhọc và thiếu ngủ đó đã hấp dẫn chị sao?

Ban đầu thì chưa đâu, tôi chỉ muốn được là một người uống trà có hiểu biết, và tôi cũng có bạn trà tâm đầu ý hợp rồi nên không có nhu cầu đòi hỏi gì hơn cả. Nhưng có lẽ là nghề chọn người. Sau những chuyến đi đó, tôi bắt đầu chia sẻ một số bài viết về trà trên mạng xã hội, dần dà nhiều người hỏi tôi về trà, về những địa điểm chất lượng để mua trà, về các quán trà trong thành phố… Thế là tôi bàn với ông xã mở một quán nhỏ để chúng tôi có thể ngày ngày pha trà, trò chuyện với những người có cùng mối quan tâm, để đưa một chút – dù chỉ một chút – không khí dễ chịu từ những nương trà về thành phố.

Tearista có vẻ là một nghề mà phụ nữ chiếm lợi thế hơn hẳn nam giới?

Trước đây có lẽ đúng là như vậy. Trong văn hóa thưởng thức trà Á Đông, chúng ta hẳn đã quen với hình ảnh người phụ nữ duyên dáng trong bộ trang phục truyền thống, tỉ mẩn sắp chén bày ấm, rót nước pha trà… Sự dịu dàng, thanh nhã của người phụ nữ rất phù hợp với việc pha trà. 

Dù vậy, ngày nay ta có thể gặp rất nhiều người pha trà là nam giới và họ cũng bộc lộ nhiều ưu điểm riêng so với nữ giới. Chẳng hạn, đa số nam giới sẽ có tinh thần vững vàng, ít xao động về mặt cảm xúc hơn, nên quá trình pha trà cũng vì thế mà ổn định và chuyên nghiệp hơn.

Cá nhân tôi nghĩ rằng tearista là nghề không phân biệt giới tính. Mỗi quán trà lại có một ngôn ngữ, cá tính riêng, theo đó thì tính chất của tearista trong mỗi quán cũng khác nhau. Có những quán trà thiên hẳn về sự nữ tính nên các tearista thường sẽ là nữ. Có những quán trà trung tính hơn, họ sẽ chọn tearista bao gồm cả nam và nữ. 

Cuối cùng thì chất lượng của chén trà mà ta uống vẫn quan trọng hơn việc người pha trà thuộc giới tính nào phải không?

Chúng tôi nói với nhau về những nốt hương vị của hoa rừng, quả chín, mùi nấm, mùi gỗ mộc, đất ẩm, mùi rau má, lá trầu không, mùi đào tươi, mùi xoài, mùi hoa trắng li ti mỗi độ xuân về…

Chúng tôi nói với nhau về những nốt hương vị của hoa rừng, quả chín, mùi nấm, mùi gỗ mộc, đất ẩm, mùi rau má, lá trầu không, mùi đào tươi, mùi xoài, mùi hoa trắng li ti mỗi độ xuân về…

Chị nghĩ điều gì là khó khăn nhất với nghề tearista?

Điều khó nhất đối với nghề này có lẽ đến từ việc số lượng quán trà ở Việt Nam vẫn còn ít quá. Người Việt có thói quen uống trà đá vỉa hè, có thể nhận những ly trà miễn phí khi vào nhà hàng, quán ăn, có thể order trà sữa mỗi buổi chiều ở công sở… nhưng ít khi nghĩ đến việc tới một quán trà để gọi một ấm trà.

Một khó khăn nữa là ở Việt Nam chưa có trường đào tạo chuyên sâu về trà (cà phê thì đã có rồi). Vậy nên những người mong muốn tìm hiểu và làm nghề như tôi vẫn luôn phải cặm cụi một mình, tự thân vận động. Việc tìm nguồn tài liệu hay gặp gỡ những chuyên gia về trà cũng không phải dễ dàng gì. 

Chúng tôi bắt đầu bằng một việc cơ bản, đó là uống càng nhiều trà càng tốt. Hễ biết được thương hiệu nào trong nước và quốc tế có trà tốt, chúng tôi đều tìm đến, uống thử, trò chuyện và tìm hiểu thêm về giống trà, thổ nhưỡng, khí hậu, lối canh tác, phương cách chế biến… Chúng tôi tự dịch hoặc nhờ bạn bè dịch giúp một số đầu sách bằng tiếng Anh và tiếng Trung để nắm bắt các kiến thức về trà trên thế giới. Sẽ rất khó để pha ngon tất cả các loại trà nếu thiếu đi kiến thức nền tảng và nhiều năm tháng rèn luyện kỹ năng pha trà.

Chứ không phải việc khó nhất là vừa đón khách, vừa pha trà, còn giảng giải cho khách bao điều quanh lá trà để họ hiểu và yêu hơn thứ mà họ đang uống? Công việc này trông có vẻ thanh tao nhàn nhã nhưng tôi thấy khi đứng sau quầy bar, cùng một lúc bộ não phải xử lý rất nhiều thứ phải không?

À, việc đó thì cũng khó đấy. Có những hôm quán đông khách quá, tôi vui nhưng cũng cảm thấy rất mệt. Có những hôm tôi gặp những vị khách không có thiện chí lắm, họ đến không phải vì trà mà có mục đích khác. Có những hôm thể trạng của mình không đảm bảo được việc tiếp đón nhiều lượt khách liên tục, tôi gần như kiệt sức. Những lúc đó tôi đã nghĩ rằng: “Sao phải khổ như thế này nhỉ? Nếu thích uống trà thì chỉ việc ở nhà tự uống trà với nhau là được”.

Nhưng bạn biết không, có những lúc tôi ngồi xuống chiếc ghế bên quầy bar, uống một tuần lục trà Shan Mường Khương, Lào Cai, tự nhiên tôi thấy cảm động lắm. Những nốt hương nấm mỡ, măng tây này, mùi khói thơm lảng bảng này, chúng đáng quý và đáng mến quá. Tôi thật tâm muốn nhiều người khác cũng nếm được, thấy được các hương vị diệu kỳ này.

Thế là tôi cứ làm tiếp. Không chỉ pha trà mà còn mở thêm những buổi trải nghiệm trà để được kể về từng loại trà đến từ những vùng đất khác nhau. Kể về Tà Xùa, Y Tí, Mộc Châu. Kể về cách làm bạch trà thì khác gì lục trà, hồng trà. Kể về trà lên men, về bánh trà 20 năm tuổi, về trần bì 10 năm tuổi. Tôi và các khách hàng của mình, chúng tôi nói với nhau về những nốt hương vị của hoa rừng, quả chín, mùi nấm, mùi gỗ mộc, đất ẩm, mùi rau má, lá trầu không, mùi đào tươi, mùi xoài, mùi hoa trắng li ti mỗi độ xuân về… Những điều ấy với người mới uống trà thì hơi khó nhận ra một chút, nhưng nếu có người đã uống nhiều hơn trao đổi cùng, khơi gợi cùng thì sẽ là một trải nghiệm thực sự tuyệt vời. 

Còn những đêm thiếu ngủ thì sao?

Ít thôi, nhưng vẫn có, khi tôi uống nhiều trà quá (cười). Hoặc khi tôi phải vắt óc nghĩ xem làm thế nào để trải nghiệm uống trà của mọi người trở nên thú vị hơn, làm thế nào nhỉ – để mọi người thích đến quán trà hơn, làm thế nào nhỉ – để tearista cũng có thể trở thành một nghề rất phổ biến như barista hay bartender.

Khi đó, nếu mọi người rủ nhau đi đâu đó, thay vì chỉ hỏi “Cà phê không?”, người ta cũng có thể hỏi nhau “Uống trà không?”. Và câu trả lời sẽ là “Uống”. 

Hôm nay ta đi uống Hồng trà Shan Tuyết nhé?

Đi!

Bài Hải Ân Ảnh VNCC

Thiết kế Uyn Nai

BẢN QUYỀN NỘI DUNG THUỘC TẠP CHÍ ĐẸP