Manh nha khi “Anyone but You” bất ngờ đạt doanh thu phòng vé hơn 200 triệu đô la vào năm 2023, bùng nổ với “The Idea of You” (2024) và tiếp tục tăng nhiệt khi “The Materialists” trở thành hiện tượng điện ảnh được bàn tán rầm rộ nhất mùa hè này, sự hồi sinh của dòng phim romantic comedy tính đến giờ không còn là điều phải nghi vấn. Sau hơn một thập kỷ thoái trào, hiển nhiên sự trở lại ấy bắt nguồn từ nhiều yếu tố. Nhưng khi nghệ thuật là tấm gương phản chiếu thực tại sáng rõ nhất, khẩu vị dành cho những thước phim hài – lãng mạn nói lên nhiều điều về bối cảnh hẹn hò hiện đại hơn ta nghĩ.
Đó là khoảng cuối thập niên 1980. Thế giới trút tiếng thở phào sau nỗi kinh hoàng chiến tranh kéo dài vài thế kỷ. New York là giao điểm rực rỡ của văn hoá đại chúng và tham vọng Phố Wall. Radio ngân nga tình ca Mariah Carey, Celine Dion. Sự kìm nén, nỗi bi quan của thời chiến cất vào một góc, người ta bắt đầu cho phép bản thân được thoải mái với những cảm xúc từng bị coi là vị kỷ.

Trên tấm nền xã hội ấy, tình yêu trở nên tự do, lãng mạn hơn nhưng cũng đầy rối bời và nhiều tự vấn. Thiên thời địa lợi đã tạo bước đệm cho sự ra đời – và ngay lập tức bước vào kỷ vàng son – của dòng phim “romantic comedy”, hay ngắn gọn hơn là “rom-com”. Xuyên suốt lịch sử điện ảnh, không phải chưa từng xuất hiện những bộ phim mang sắc thái “hài” và “lãng mạn” như thế. Thậm chí, “mã gen” của nó còn có thể lần về những trang kịch của Shakespeare năm thế kỷ trước. Nhưng phải đến năm 1989, định nghĩa “romantic comedy” mới chính thức được thiết lập với hiện tượng mang tên “When Harry met Sally”, khi mà kịch bản mới mẻ những cũng đầy chất liệu thực tế của Nora Ephron không chỉ mở màn cho một kỷ nguyên rực rỡ, mà còn khuôn tạo một “công thức vàng” cho các bộ phim về sau.

“Chàng và nàng gặp nhau trong một hoàn cảnh tình cờ và dễ thương (meet-cute). Dù ‘phản ứng hoá học’ không thể chối cãi nhưng tình yêu không đến dễ dàng, hai người rơi vào hiểu lầm, xung đột, hoặc chia cắt (conflict). Rồi một ngày nọ, hoặc chàng, hoặc nàng bỗng nhận ra mình chẳng thể sống thiếu người kia. Một hành động táo bạo để tuyên bố tình yêu (grand gesture) và từ đó họ sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi.”
Công thức ấy được xoay vòng theo hàng trăm cách khác nhau, thế nhưng hàng triệu triệu người vẫn ra rạp để đón xem từng bộ rom-com mà cái kết họ có thể đoán trước. Đơn giản vì rom-com chạm đến niềm tin bản năng của con người đối với tình yêu trong thời đại mà những trái tim vốn ngập tràn những cảm quan tươi sáng. Nó nuôi dưỡng các khái niệm về “the one”, về định mệnh. Rằng luôn có một người dành cho mỗi người dù ta có “hút thuốc, uống rượu, …nói tục và có một bà mẹ thô lỗ” như tiểu thư Jones. Rằng những người yêu nhau chắc chắn sẽ về bên nhau, dù giữa họ có là khoảng cách của anh chàng bán sách bình thường ở Notting Hill và đại minh tinh trên đỉnh cao Hollywood. Khán giả cảm thấy an toàn để thoải mái khóc cười theo những cảnh phim, vì họ chắc nịch rằng, kịch bản hài lãng mạn sẽ không đi ngược với đức tin của mình.

Xã hội của thập niên 2020 không phải là mảnh đất màu mỡ cho những mỹ cảm về tình yêu nảy nở như thời điểm kể trên. Hãy khoan bàn đến những yếu tố kinh tế – chính trị, đời sống của chúng ta cũng đã bị chi phối bởi chồng chéo các bộ lọc về tâm lý: chủ nghĩa cá nhân đến cực đoan, sự cạn kiệt về mặt cảm xúc, và tình trạng mất kết nối thực trong một thế giới quá độ kết nối ảo… Tất cả đã đẩy trọng lực và gây ra những vết nứt vỡ lên bối cảnh hẹn hò đương đại.

Tác giả bậc thầy trong diễn giải nội tâm con người – Hermann Hesse từng đưa ra một lý thuyết trong “Steppenwolf”: “Mỗi thời đại, mỗi nền văn hoá đều có cung cách riêng để đặt ra các tiêu chuẩn về tốt – xấu… Đời người chỉ thực sự thống khổ khi hai thời đại, hai nền văn hoá nhập nhằng với nhau.”
Theo hệ quy chiếu của Hesse, thiết nghĩ thế hệ bị mắc kẹt sâu nhất trong cái hỗn mang của bối cảnh hẹn hò đương đại không ai khác ngoài… Millennial, và đặc biệt là Gen Z – những con người lớn lên với lăng kính tình yêu được tô hồng bởi những thước phim rom-com kỷ hoàng kim, nhưng lại phải kiếm tìm “nửa kia” trong thời đại mà mọi định nghĩa bị đảo lộn. Thay vì kết thúc có hậu với “the one” do định mệnh an bài, lại là mê cung bất tận của “hookup culture” và những chuyện tình không tên. Thay vì những cuộc gặp kiểu “meet-cute” trong quán cà phê, ngoài phố, trên thư viện…, lại là những tin nhắn thật-giả trải khắp 101 mạng xã hội và ứng dụng hẹn hò. Và thay vì những “hành động vĩ đại”, tự bao giờ “bare minimum” cũng đã đủ làm trái tim thổn thức?

Cũng giống như hoài niệm Y2K phản ánh ước ao quay về năm tháng mà cuộc sống dường như còn đơn giản, vô ưu hơn, thì khẩu vị mạnh mẽ trở lại đối với dòng phim hài lãng mạn cũng là cơ chế phản vệ của những “kẻ tình si” trong một hiện thực hẹn hò khắc nghiệt. Trên khắp các mạng xã hội video từ Tiktok, Instagram cho đến Youtube, những trích đoạn rom-com xưa bỗng chốc viral và trở thành xu hướng nội dung mới. Người ta không chỉ hứng thú với nó như một loại hình điện ảnh, mà còn tìm thấy trong đó những mong mỏi, kỳ vọng khó thể với tới ở ngoài đời thực. Bởi khi mà những cái quẹt trái, quẹt phải biến chuyện yêu đương như thể lướt Shopee rồi thêm vào giỏ hàng, loạt tình mập mờ và những lần bị “ghost” bắt cảm xúc của ta phải chai lì phòng vệ – còn đâu ra một ánh nhìn lấp lánh như Matthew McConaughey trao cho Kate Hudson khi thấy nàng trong chiếc đầm satin vàng óng, còn đâu ra một chàng Noah tay không xây cho bạn ngôi biệt thự trong mơ với cửa sổ xanh, tường trắng và hồ nước sau nhà?
Kỷ phục hưng của rom-com không đơn thuần được viết nên bởi hoài niệm với các bộ phim ở dòng thời gian quá khứ, mà còn hiển hiện rõ nét ở bức tranh điện ảnh mấy năm trở lại đây. Ra mắt vào năm 2023, “Anyone but You” được coi là đã mở màn cho sự hồi sinh của dòng phim hài lãng mạn sau hơn một thập kỷ bị coi là “thuốc độc phòng vé”. Kịch bản chuẩn theo công thức vàng thu về hơn 200 triệu đô la là minh chứng cho thấy khán giả đang nhớ nhung cảm giác tan chảy mà những bộ phim rom-com chuẩn mực mang lại.

Tất nhiên, Hollywood không thể cứ thế “bê” y nguyên lý thuyết từ thời hoàng kim xưa cũ vào các sáng tạo mới của mình và mong nó khỏa lấp được cơn khát của khán giả thời nay. Một trong những nguyên nhân chính đẩy rom-com xuống bờ vực thoái trào vào thập niên 2010 là lối mòn trong việc xây dựng kịch bản và nhân vật. Cố gắng bám vào những hình tượng một thời ăn khách cùng cách dẫn dắt lạc quan xa rời hiện thực, nó thất bại trong việc nắm bắt những lớp lang vi tế của tình yêu trong thời đại mà ở đó cảm xúc, giới tính, vai trò xã hội và khái niệm về các mối quan hệ đều không còn đơn tuyến. Ván cờ để rom-com thực sự có thể hồi sinh nằm ở khả năng phản chiếu những tổn thương, hỗn loạn và sự phức tạp của thời đại, trên cái nền lãng mạn cổ điển và niềm tin bất biến vào tình yêu vốn làm nên sức hút của thể loại phim này.
“Anora”, hiện tượng điện ảnh thành công bậc nhất của năm 2024 về mặt hàn lâm, có thể coi là một màn giải cấu trúc táo bạo của đạo diễn Sean Baker đối với công thức romantic comedy truyền thống. Được ví như “Pretty Woman” của thế kỷ 21, phông màu cổ tích chỉ được dựng nên ở phần đầu phim, để rồi sau đó những ranh giới bất khả xoá mờ giữa quyền lực, giai cấp và định kiến lần lượt được bóc tách, “ném” khán giả về lại hiện thực cay đắng trần trụi. Nhưng cuối cùng, dẫu chẳng có hoàng tử nào cứu rỗi, phải chăng vẫn là một “kết thúc có hậu” cho cô vũ nữ thoát y khi thứ còn lại mới là điều cô thực sự cần: khoảnh khắc bừng tỉnh và một tấm chân tình. Đó là điều làm rom-com thực tế hơn, nhưng không làm mất đi cái DNA lãng mạn của nó.

Hay mùa hè 2025, thật hiếm có phim điện ảnh nào gây xôn xao hơn “The Materialists”, tác phẩm thứ hai chắp bút bởi đạo diễn Celine Song sau tiếng vang của “Past Lives” hai năm về trước. Ngay từ trailer, mọi yếu tố đã cho thấy tiềm năng của một bộ phim romantic comedy “hay như thuở nào”: giữa khung cảnh thành thị New York, Dakota Johnson trong vai cô nữ chính xinh đẹp, độc lập, với sự nghiệp đang cất cánh, bị cuốn trong một mối tình tay ba với người đàn ông đúng chuẩn 3T “Kinh Tế – Tử Tế – Tinh Tế” (Pedro Pascal) và chàng tình cũ… rỗng túi (Chris Evans), trong những cân đo đong đếm bất tận theo kiểu “chọn con tim hay là nghe lí trí”.

Tuy nhiên, sau khi công chiếu, người xem mới vỡ ra đây không phải là một bộ phim rom-com tiêu chuẩn như cách mà chiến lược marketing của hãng phim A24 khiến chúng ta tin sái cổ. Vẫn lãng mạn, vẫn hài hước, phim đặt ra và đi tìm lời giải cho những câu hỏi sắc cạnh hơn về bản chất hôn nhân, bản chất tình yêu và mối quan hệ của nó với những nguyên lý mà cuộc sống và xã hội vận hành. Có lẽ, đó là một chiến lược thức thời khi “The Materialists” đã mượn nỗi hoài niệm rom-com xưa để dẫn dắt khán giả ra rạp, nhưng lại làm người ta phải lắng mình suy nghĩ về thực tại – chứ không chỉ trốn chạy vào một chiều không gian khác trong vỏn vẹn 2 tiếng đồng hồ. Song, giữa những mảng màu sáng tối của hiện thực, “The Materialists” vẫn ôm lấy chủ nghĩa tình yêu cổ điển của dòng phim hài lãng mạn, khi mà đạo diễn Celine Song nói về ý đồ cô gửi gắm trong cái kết: “Suy cho cùng, ta vẫn mơ về một tình yêu khiến những toan tính khác chẳng còn quá quan trọng.”
Thời thế ra sao, con người vẫn là một sinh vật biết yêu, và tin vào tình yêu. Sau xấp xỉ một thập kỷ thoái trào, dòng phim romantic comedy hồi sinh không phải vì sự lãng mạn một lần nữa lên ngôi, mà ngược lại, vì chúng ta đang thiếu thốn và hoài mong nó đến thế nào. Vị đầu bếp trứ danh Anthony Bourdain từng có một lời nhắn nhủ đầy cảm hứng có lẽ không chỉ về ẩm thực mà còn là về cách sống : “Eat at a local restaurant tonight. Get the cream sauce.” (Tạm dịch: Ăn ở một quán địa phương tối nay. Nhớ gọi sốt kem.) Giữa bối cảnh hẹn hò như cắt ra từ một bộ phim viễn tưởng phản địa đàng, phải chăng romantic comedy có thể là thứ sốt kem ấy? Cổ điển, dễ ăn, và vị béo ngậy ấm áp của nó cho ta cảm giác chữa lành, ủi an niềm tin tình yêu giữa những cạn kiệt và hoài nghi của thời đại.