Nhưng điều quan trọng nhất, là ông cảm ơn người vợ đã ủng hộ để ông làm một “ông chồng chợ búa, cơm nước, nuôi con” đúng nghĩa, vợ Lý An luôn khuyến khích ông làm những việc gì mà ông yêu thích, theo đuổi giấc mơ mà ông mong muốn, càng không đòi hỏi Lý An phải ngay lập tức kiếm tiền, thành đạt. Vợ Lý An càng chưa bao giờ cho rằng, mười năm phải nuôi chồng, hay chồng vào bếp cơm nước, chăm con sơ sinh thì nghĩa là, chồng bà là người đàn ông bất lực và thất bại.
Lý An đặt tiêu đề cho bài viết: “Có khi chỉ là một câu nói”.
“Năm 1978, tôi 24 tuổi, khi tôi chuẩn bị ghi danh dự thi vào khoa Điện ảnh kịch nghệ của Đại học Illinois (Mỹ), bố tôi phản đối cực lực, bố tôi kiếm cho tôi một tài liệu thống kê: Sân khấu Broadway của Mỹ mỗi năm chỉ cần 200 vai diễn mà thôi, thế mà khoảng 50 nghìn người giày xéo lên nhau để tranh những suất diễn viên ấy. Nhưng tôi không nghe lời bố, tôi vẫn lên máy bay từ Đài Loan bay sang Mỹ. Bố gần như từ mặt tôi từ khi đó. Suốt 20 năm tiếp theo, ông chắc có lẽ không nói với tôi quá trăm câu!
Nhưng, phải mấy năm sau khi tôi tốt nghiệp ra, tôi mới hiểu nỗi lo lắng của bố. Trong giới điện ảnh Mỹ, một người Hoa không quen biết, không tiền, không thế lực, muốn chen chân thật khó, chứ đừng nói là để nổi tiếng. Bắt đầu từ năm 1983, tôi đã trải qua suốt sáu năm chờ đợi vô vọng, lúc nào may mắn thì được đi theo tổ đạo cụ để xem xét vật dụng, làm chân sai vặt cho nhóm kỹ thuật hậu kỳ, hay lo những thứ lặt vặt râu ria quanh trường quay. Tôi thấy dằn vặt nhất là có khi, viết ra một kịch bản, suốt hai tuần lễ tôi liên tục chạy đi hơn ba mươi hãng phim của Mỹ, liên tục gặp những cái lắc đầu, từ chối.
Mà lúc ấy tôi đã ba mươi. Cổ nhân có câu “Tam thập nhi lập”. Mà tôi chẳng thể tự kiếm cơm được, biết làm thế nào. Chờ đợi, chờ đợi, hay sẽ vứt bỏ giấc mơ làm phim? Điều may mắn nhất đời tôi là khi ấy, tôi đã lấy vợ.
Vợ tôi Lâm Huệ Gia cũng là du học sinh Đài Loan ở cùng trường, nhưng cô ấy học về sinh vật học, sau khi tốt nghiệp, cô ấy trở thành nhân viên nghiên cứu về dược học cho một phòng nghiên cứu nhỏ, lương thực sự rất eo hẹp. Hồi đó chúng tôi đã có đứa con trai đầu lòng (Lý Hàm – sinh năm 1984), cuộc sống hàng ngày của chúng tôi những năm ấy là, tôi ngày ngày đi chợ, cơm nước giặt giũ và trông con, làm tất thảy mọi việc trong gia đình cho vợ đi làm, ngày nào cũng quét dọn cho nhà cửa sạch bóng tươm tất. Lúc nào rảnh tôi mới ngồi xem phim, viết kịch bản. Tôi rất nhớ hình ảnh, mỗi buổi chiều sau khi nấu cơm xong, tôi bế con ra ngồi ở bậu cửa, vừa kể chuyện cho con trai nghe, vừa chờ đợi “người thợ săn dũng cảm mang chiến lợi phẩm (tiền nuôi gia đình)” về nhà!
Cứ sống như thế năm này sang năm khác, nói thật tôi rất bứt rứt. Có những thời gian, bố mẹ vợ bảo là cho vợ chồng tôi một khoản tiền tiết kiệm, để tôi mở một tiệm cơm người Hoa trên đất Mỹ. Ít nhất cũng phải kiếm được tí cơm tí cháo chứ. Nhưng chính vợ tôi lại là người tự ái, từ chối khoản “trợ cấp” ấy của bố mẹ. Sau khi biết sự việc ấy, tôi trằn trọc mấy đêm rồi cuối cùng quyết định: Có lẽ cả đời này tôi chẳng bao giờ được làm phim! Thế nên phải kiếm cách mà đối diện sự thật ấy!
Tôi đến trường đại học cộng đồng của khu dân cư, xem xét kỹ rồi cuối cùng ghi danh vào lớp máy tính. Những năm khó khăn này, hình như chỉ có vi tính là môn kỹ thuật mà ta chỉ cần một thời gian ngắn đã học được nghề. Vợ tôi độ một hai hôm sau đã phát hiện ra thời khóa biểu và giáo trình trong túi tôi. Đêm ấy, cô ấy chẳng nói với tôi câu nào.
Sáng hôm sau, trước khi bước lên ô tô để đi làm, cô ấy đứng trên bậc tam cấp bảo tôi: “An, anh quên mơ ước anh ấp ủ trong lòng rồi à!”
Chỉ một câu nói ấy thôi. Vợ tôi lái xe đi rồi, tôi cầm cuốn giáo trình xé rồi bỏ sọt rác ngay cửa nhà tôi.
Mấy năm sau, kịch bản của tôi được nhận tài trợ của quỹ văn hóa, rồi tôi được cầm đến cái máy quay phim, rồi phim của tôi đoạt giải. (Bộ phim đầu tay của Lý An được Cục tin tức Đài Loan tài trợ, năm 1991, khi ông đã 38 tuổi).
Vợ tôi sau bộ phim đầu tay của tôi mới nhắc lại chuyện cũ vào nói: “Em luôn tin rằng, ai cũng chỉ cần một cái tài là sống được. Tài của anh là phim ảnh. Người học IT lắm thế, anh có học cũng chẳng cạnh tranh được với ai. Anh chỉ hơn người khác một cái là anh có mơ ước cầm được tượng Oscar vàng, thì anh phải giữ lại mơ ước ấy!”.
Tôi đã từng đoạt được giải Oscar, tôi nghĩ rằng những sự nhẫn nại năm xưa của tôi, sự hy sinh của vợ tôi, cuối cùng đã có kết quả, là để cho tôi đi tiếp trên con đường điện ảnh mà tôi mơ ước.”
Khi tự sự về chuyện đời của đạo diễn Lý An được đăng trên diễn đàn điện ảnh Đài Loan, rất nhiều người hâm mộ đã vào comment và nói, thực sự, không có nhiều người vợ trong xã hội ngày nay chịu để cho ông chồng dành gần chục năm sung sức nhất của người đàn ông chỉ để quét nhà rửa bát. Có mấy bà vợ tin tưởng và ủng hộ chồng đến mức ấy, mà không nói lời nặng nhẹ vài lần.
Và quan trọng hơn, có mấy ông chồng chịu giúp vợ việc nhà chu đáo đến thế. Nếu các ông thành đạt, các ông chẳng bước chân vào bếp. Nếu các ông thất nghiệp, chắc càng gia trưởng hoạch họe vợ. Thậm chí, chỉ hơi khó chịu là ông chồng sẵn sàng gây sự, có phải cô coi thường tôi không kiếm ra nhiều tiền?
“Ông nội trợ” chẳng làm người đàn ông nào mất đi giá trị. Vấn đề chỉ là bản thân người đàn ông ấy có gì trong tim và có gì trong đầu!
Trang Hạ