Tương truyền thời mạt Tấn, thi hào Đào Uyên Minh (365 – 427) mỏi chán hoạn lộ, cáo quan bỏ về quê thanh bần sống đời cày cấy. Thơ điền viên của ông tuyệt hay “Bầu xuân vui chuốc chén/ Hái mớ rau vườn nhà/ Mưa phùn từ đông đến/ Đem theo là gió hòa”, nhưng nổi tiếng nhất là bài “Quy khứ lai từ” mà phóng khoáng dịch theo kiểu hậu hiện đại sẽ là “té về đi thôi” thanh thoát đau đớn giải thích cái việc mình từ quan. Ông Đào là người nhân cách rất cao, kiến văn rất rộng nhưng có một hobby tương đối đặc biệt, đấy là rất thích dông dài ngồi tán gẫu. Nhà ông thậm nghèo, bóng cây che sân đất, ông thường rủ đám nông phu tới uống rượu suông rồi nói láo.
Tàn bữa, những nông phu kia mệt đừ bẩm với ông rằng chẳng có chuyện gì để nói nữa, ông cười dịu dàng bảo, đã là chuyện gẫu thì cứ bịa ra mà nói.
Xưa cũng như nay, đàn ông đã rộng tính khi có chút dư dật nhàn tản đa phần đều thích tán láo. Từ điển tiếng Việt giải nghĩa tán dóc, tán gẫu, tán phét đại loại là: “Nói toàn những chuyện không đâu vào đâu, tào lao cho vui”.
Tán láo không thấy được kê cứu, nhưng chắc cũng loanh quanh trong cái trường nghĩa ấy thôi. Đàn ông tán láo thường ngồi xung quanh hoặc mâm rượu hoặc bàn bia, quang cảnh ngổn ngang dăm bảy bằng hữu nửa thân nửa sơ. Câu chuyện lúc căng lúc chùng, tửu nhập ngôn xuất, chủ đề lúc thấp lúc cao hầu hết là vớ vẩn là linh tinh, là những chuyện buông thả cợt cười. Và chuyện buông thả thì chẳng có gì hay bằng chuyện tục. Và chuyện tục hay nhất thì chẳng có gì hay bằng chuyện cái nọ xọ cái kia.
Ví như mới hôm qua đi hát karaokê ôm, gặp một em cave vừa xinh vừa ngoan lại vừa lả lơi. Hứng chí cho số điện thoại cầm tay, đêm về nằm cạnh vợ bỗng nhận được tin nhắn có hai câu gợi tình lục bát hay hơn hẳn văn ông Nguyễn Việt Hà.
Rồi hôm nọ đi “mát xa” gặp một em xử nữ có phao câu sâu sắc sinh động như phao cứu sinh. Ông bạn vừa quen ở Tây lâu năm chợt hỏi, “xử nữ” liệu có phải là “con gái đã qua sử dụng”, Anh ngữ tạm dịch là “Used girl”. Cả bọn đang uống phì cười rơi cả bia. “Xử nữ” là thuật ngữ tiếng Tầu trong chuyện chưởng chỉ người con gái vẫn còn nguyên. Ở chốn thanh lâu mà gặp được xử nữ là hiếm lắm, nó hiếm y như đã là hoa hậu mà bỗng dưng khiêm nhường chịu đi lấy chồng nghèo. Bữa rượu cứ thế mà trôi, gầy cuộc lúc đầu Ngọ lảo đảo đứng lên đã cuối Dậu. Bàng hoàng bi tráng thở dài cảm thán: “Đúng là thời gian như nước”.
Đàn ông lúc đang hăng say tán láo thì thường có hai điều rất sợ. Một là sợ những người nghiêm trọng thật thà luôn mồm khen ngợi vợ mình rồi kể xấu người tình. Hai là có người cùng bàn nổi hứng mời thêm khách nữ. Có phụ nữ xuất hiện câu chuyện bỗng thăng hoa vĩ mô những là chia sẻ nạn đói Bắc Phi, những là cải cách hành chính đại học, những là bức xúc an toàn giao thông. Rồi hơi hơi đỏ mặt khoe khéo tài năng của mình, tài sản của mình, phẩm hạnh của mình. Chuyện tán láo đang có nhí nhố đạo đức thật chợt rưng rưng chuyển sang trong trắng nồng nặc mùi đạo đức giả.
Có lẽ do vậy nên từ lâu lắm rồi, vô số đàn ông phát chán không đi tụ bạ tán phét nữa mà âm thầm ngồi một mình tự cô độc luyên thuyên. Lảm nhảm xót xa mãi thì lấy những lời không đâu vào đâu vất vả chép lại thành chữ. Kiệt tác “Liêu trai chí dị” được Bồ Tùng Linh (1640 – 1715), một đàn ông ham tán láo sáng tác trong hoàn cảnh như thế. Nhà thơ cùng thời nổi tiếng Vương Sĩ Trinh đã nghẹn ngào đề từ cho kiệt tác nói phét thành thần ấy như sau:
Nói láo mà chơi nghe láo chơi.
Giàn dưa lún phún hạt mưa rơi.
Chuyện đời hẳn chán không buồn nhắc.
Thơ thẩn nghe ma đọc mấy lời.
(Bản dịch của Tản Đà)
Nghe đồn rằng, kể từ sau khi có Liêu Trai, đàn ông ngồi tán láo chỉ toàn bàn về chuyện “xếch-xi” ma nữ.
Trần Khôi Việt |