Với sức mạnh điện ảnh bao trùm của Hollywood, Mỹ từ rất sớm đã trở thành nước đầu tiên làm phim lấy bối cảnh của Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Đó là bộ phim “Rogues’ Regiment” sản xuất năm 1948 – thời điểm Mỹ bắt đầu viện trợ cho quân Pháp trên chiến trường Đông Dương. Đây cũng là lần đầu tiên có một nhân vật Việt Nam xuất hiện trong bảng phân vai – vai phụ Tran Duy Gian do diễn viên Mỹ gốc Hàn nổi tiếng Philip Ahn đóng… Không ai tưởng tượng được, hơn 10 năm sau bộ phim ấy, nước Mỹ trở thành nhân vật chính trong một cuộc chiến đầy tủi hổ và phi nghĩa.
Năm 1957, lần đầu tiên phương Tây nghe đến hai chữ “Việt minh” qua bộ phim “China Gate” (Cổng Trung Hoa) của đạo diễn Samuel Fuller, với câu chuyện phim xảy ra ở biên giới Trung Quốc và Việt Nam. Năm 1958, Hollywood chính thức “bén duyên” với Chiến tranh Đông Dương qua bộ phim “The Quiet American” (Người Mỹ trầm lặng) – chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của Graham Greene. Lần đầu tiên trong lịch sử, một đoàn phim Hollywood đúng nghĩa, được dẫn dắt bởi đạo diễn lừng danh Joseph L. Mankiewicz, cùng với hàng tấn thiết bị làm phim hiện đại đã “đổ bộ” đến Sài Gòn để quay bộ phim này.
Vài năm sau “The Quiet American”, một đoàn phim Mỹ khác cũng đã đến, và quay hoàn toàn ở miền Nam Việt Nam – phim “A Yank in Vietnam” của đạo diễn Marshall Thompson. Vai nữ du kích chính trong phim do ngôi sao điện ảnh của miền Nam lúc bấy giờ là Kiều Chinh đóng. Thật trùng hợp, khi phim này công chiếu năm 1964, đúng thời điểm mang tính cột mốc: Những người lính Mỹ lần đầu đặt chân đến Đà Nẵng, mở ra một chương bi thảm khốc liệt mang tên “Chiến tranh Việt Nam”.
Một thập kỷ che giấu sự thật
Trong hơn 10 năm kể từ khi những người lính Mỹ lần đầu đặt chân đến Việt Nam, cho tới khi chuyến trực thăng cuối cùng đưa 11 quân nhân rời khỏi Đại sứ quán Mỹ sáng ngày 30/04/1975, chính phủ Mỹ gần như đã thành công trong việc che giấu những gì thật sự xảy ra trong cuộc chiến phi nghĩa này. Và một trong những thành công đó là kéo Hollywood ra xa chiến cuộc. Thật ngạc nhiên khi từ năm 1964 trở đi, Hollywood gần như đứng ngoài lề, chỉ có lác đác một vài phim nhỏ phản ánh cuộc chiến với góc nhìn phiến diện và thiên vị.
Trong khi những người dân khắp nước Mỹ ào ạt xuống đường vì họ đã bắt đầu không tin những luận điệu một chiều của chính phủ, thì năm 1968, cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân của những người cộng sản Việt Nam đã khiến cả nước Mỹ rúng động trong thời điểm chiến tranh đang leo thang dữ dội. Hollywood lập tức tung ra ngay trong năm đó một siêu phẩm điện ảnh nhằm xoa dịu dư luận. Huyền thoại điện ảnh Mỹ John Wayne đã thực hiện bộ phim tuyên truyền “The Green Berets” (Mũ nồi xanh) để bày tỏ sự ủng hộ với quân đội Mỹ. Phim có kinh phí khá lớn là 7 triệu USD và doanh thu lên đến 21,7 triệu USD. Thành công của bộ phim chứng tỏ phần lớn công chúng Mỹ vẫn đứng về phía chính phủ, vì họ không biết điều gì thực sự đã xảy ra ở chiến trường Việt Nam.
“Hearts and Minds”
Điện ảnh Hollywood bàng quan đứng ngoài lề cuộc chiến, nhưng họ không thể ngăn được các nhà làm phim tài liệu độc lập quyết phanh phui sự thật. Cũng trong năm 1968 đầy sóng gió này, “quả bom sự thật” đã bùng nổ vào cuối năm khi bộ phim tài liệu “In the Year of the Pig” (Năm Hợi) tung ra làm chấn động dư luận Mỹ. Nhà làm phim Emile de Antonio đã bỏ ra hai năm nghiên cứu, đọc hàng trăm cuốn sách về lịch sử Việt Nam và tham khảo những thước phim tư liệu từ kho lưu trữ ở Paris để thực hiện bộ phim tài liệu dài không khác gì một cuốn phim truyện, 103 phút. Bộ phim đã vạch trần sự thật mà trước đó chưa ai dám động đến về chính sách can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Giá trị của bộ phim nằm ở chỗ, nó tiên đoán trước về sự thất bại của người Mỹ – trước cả khi có Hội nghị Paris, và trước khi có sự kiện 30/04/1975 – như là kết quả không thể tránh khỏi trong một cuộc chiến mà chỉ có chính phủ Mỹ xem là “chính nghĩa”.
Khoảng lặng thời hậu chiến
“Coming Home”
Năm 1978 là năm đánh dấu sự bùng nổ của thời kỳ hậu Chiến tranh Việt Nam với 4 phim công chiếu: Hai bộ phim “Good Guys Wear Black” và “Go Tell the Spartans” của đạo diễn Ted Post không được chú ý mấy, và hoàn toàn bị lu mờ trước hai phim “Coming Home” (Hồi hương) của đạo diễn Hal Ashby, và “The Deer Hunter” (Người săn nai) của đạo diễn Michael Cimino.
“Coming Home” là câu chuyện tình tay ba giữa một phụ nữ (Jane Fonda thủ vai) với hai người đàn ông đều là những cựu binh Mỹ hồi hương. “The Deer Hunter” kể câu chuyện về ba người bạn cùng sang chiến đấu ở Việt Nam, nhưng khi trở về quê nhà, ký ức chiến tranh quá khủng khiếp đã biến họ trở thành những con người khác, và rất khó khăn để hòa nhập lại với cuộc sống.
Cả hai phim đều được khán giả đón nhận nồng nhiệt và trở thành đối thủ so kè nhau dữ dội ở giải Oscar năm ấy. “Coming Home” có các ngôi sao Jane Fonda, Jon Voight, thì “The Deer Hunter” cũng không hề kém cạnh với Robert De Niro, Meryl Streep, Christopher Walken. Tuy nhiên, xét về tổng thể thì “The Deer Hunter” nhỉnh hơn về mặt nghệ thuật. Oscar 1978 là lần duy nhất trong lịch sử mà phim về một chủ đề (Chiến tranh Việt Nam) được tôn vinh gần như tuyệt đối, khi thống trị hầu hết những giải quan trọng: “The Deer Hunter” đoạt 5 giải Oscar (Phim hay nhất, Đạo diễn, Nam diễn viên phụ, Dựng phim, Âm thanh); “Coming Home” đoạt 3 giải Oscar (Nam, Nữ diễn viên chính, Kịch bản hay nhất).
Tuy nhiên, “The Deer Hunter” gần như bị tranh cãi dữ dội bởi một cảnh rất đáng sợ: Quân Bắc Việt giải trí bằng cách hành hạ tù binh Mỹ tàn bạo, khi bắt họ phải chơi trò quay roulette kiểu Nga (cho một viên đạn vào ổ quay, xoay ổ quay một vòng rồi chĩa súng vào thái dương mình bóp cò). Ngôi sao Jane Fonda đã tỏ ra rất tức giận với sự bịa đặt trắng trợn này, thậm chí cô quay đi chỗ khác khi đạo diễn Michael Cimino đến chúc mừng cô đoạt giải Oscar. Năm 2008, nhân dịp kỷ niệm 30 năm bộ phim “The Deer Hunter” ra mắt, nhà sản xuất Barry Spikings đã thú nhận trên tờ Vanity Fair: “Có nhiều điều sai trái trong bộ phim ‘The Deer Hunter’. Tôi mong được làm một bộ phim khác để chuộc lỗi với người Việt Nam. Chúng tôi đã bêu xấu họ, và tôi vô cùng hối hận về điều đó”.
“The Deer Hunter”
Thập niên 1970 khép lại với một siêu phẩm được đánh giá là vĩ đại nhất trong tất cả những phim về Chiến tranh Việt Nam: “Apocalypse Now” (Ngày tận thế) của đạo diễn Francis Ford Coppola. Bộ phim được đánh giá cao hơn hẳn những phim cùng đề tài ở chỗ nó chỉ lấy Chiến tranh Việt Nam làm nền cho một góc tối khác của quân đội Mỹ: Chiến tranh là nỗi ám ảnh của sự điên loạn. Phim đoạt Cành cọ Vàng LHP Cannes 1979, và được đề cử Oscar Phim hay nhất.
Kỷ nguyên của sự thật
Thập niên 1980 được xem là kỷ nguyên của phim Chiến tranh Việt Nam. Nửa đầu thập niên 1980, ngoài Mỹ còn có các nước khác cũng nhảy vào đề tài này như Anh, Úc, Pháp, Ý, Hồng Kông, Nam Triều Tiên (Hàn Quốc ngày nay)… nhưng không có phim nào để lại dấu ấn. Trong khi phim Mỹ giai đoạn này bắt đầu khai thác khía cạnh giật gân, mượn đề tài Việt Nam để làm những bộ phim mang tính giải trí, nhằm xoa dịu công chúng Mỹ sau những tổn thương tinh thần từ thập niên 1970. Những bộ phim như: “Rambo II”, “Uncommon Valor”, “Missing in Action”… đều là những câu chuyện mang tính giải trí xoay quanh các cuộc giải cứu hư cấu tù binh Mỹ bị giam cầm ở Việt Nam.
“Heaven and Earth”
Giữa lúc mọi người đang dần quên đi sự kiện 30/04/1975, thì năm 1986, bộ phim “Platoon” (Trung đội) của Oliver Stone xuất hiện đã làm thay đổi phim Chiến tranh Việt Nam mãi mãi. Khác với tất cả những phim về đề tài này tới thời điểm đó, “Platoon” đã chỉ ra nguyên nhân thất bại của người Mỹ ở chiến trường Việt Nam. Nó khiến người Mỹ bàng hoàng khi nhận ra cuộc chiến diễn ra ở ngay trong lòng họ, chứ chẳng có kẻ thù nào hết. Mọi người ùn ùn đổ xô đi xem một bộ phim nhỏ bé với kinh phí chỉ 6 triệu USD, nhưng đã làm thức tỉnh người dân Mỹ – những người mà 10 năm sau sự kiện 30/04/1975 vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng: Vì sao nước Mỹ tháo lui mất mặt như vậy? Riêng ở Bắc Mỹ, 138,5 triệu USD tiền vé và 4 giải Oscar sau đó dành cho “Platoon” (bao gồm cả giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc cho Oliver Stone) đã khiến chủ đề phim Chiến tranh Việt Nam rẽ sang một hướng mới: Trả mọi thứ về đúng với bản chất của sự thật.
Liên tiếp những năm sau đó – 1987: “Full Metal Jacket” (Áo giáp thép), “Hamburger Hill” (Đồi thịt băm), “Good Morning Vietnam” (Chào Việt Nam); 1989: “Casualties of War” (Tổn thất chiến tranh),“Born on the 4th of July” (Sinh ngày 4/7)…- những bộ phim Chiến tranh Việt Nam mang giá trị nghệ thuật cao đã biến hàng chục phim giải trí cùng thể loại trong thập niên 1980 trở thành trò hề.
“Apocalypse Now”
“Casualties of War”
Kỷ nguyên phim Chiến tranh Việt Nam chính thức khép lại sau thất bại nặng nề của bộ phim “Heaven and Earth” (Trời và Đất) năm 1993. Một cái kết buồn của đạo diễn Oliver Stone, khi ông rất tham vọng đạt được một kết thúc có hậu với bộ ba phim về Chiến tranh Việt Nam. Ông là người đã mở ra một kỷ nguyên mới cho nó, nhưng cũng là người khép lại kỷ nguyên ngắn ngủi ấy.
Từ thập niên 1995 đến nay, vẫn có những bộ phim lấy đề tài Chiến tranh Việt Nam được sản xuất, nhưng chưa có phim nào đi sâu vào lòng người như những bộ phim của thập niên 1970, 1980. Chủ đề chiến tranh không bao giờ lỗi thời, vấn đề là không có một câu chuyện hay để kể lại.
Bài: Bá Vũ