Tháng… năm…
Đó là một mùa đông rét mướt của bốn năm về trước, ở Paris. Neil chờ tôi ở bến tàu và đưa tôi về căn hộ nhỏ xíu của cậu ấy. Neil là một người bạn cũ của tôi ở London, chuyển sang làm việc tại Paris cho một tạp chí du lịch. Tôi chưa từng gặp một người London nào lại yêu quý Paris như Neil. Chúng tôi cùng nhau đi dạo khắp thành phố, dọc sông Seine cho đến tháp Eiffel, từ viện bảo tàng cả hai cùng yêu thích cho đến quán rượu cũ kỹ của một cụ bà 90 tuổi khó tính nhưng luôn hào hứng khi nói về những tháng năm tuổi trẻ của mình.
Lang thang qua những con phố nhỏ để lắng nghe mùa đông trong lòng thành phố, tôi chợt nhận ra Paris và mùa đông hợp nhau ở những điều cũ kỹ, trầm mặc và lắng sâu. Nhà văn người Pháp Patrick Modiano từng nói những con phố mang vẻ đẹp dịu dàng bất chấp thời gian chính là hiện thân của sự hoa lệ, cổ kính đậm màu Paris. Ngày ấy, tôi đã từng ước rằng Marcelo sẽ chờ tôi ở cuối một con phố Paris nào đó, như anh đã hẹn, chứ không phải là Neil. Và chúng tôi sẽ cùng nhau đi hết những nơi chốn mà Modiano nhắc đến trong cuốn “Phố của những cửa hiệu u tối”. Nhưng anh đã không còn ở đó đợi tôi nữa.
Tháng… năm…
Tôi trở lại Paris, vào mùa thu, mang theo cuốn sách mới của Patrick Modiano – “Để em khỏi lạc trong khu phố”. Paris dưới ngòi bút tuyệt vời của Modiano luôn khiến tôi mê mẩn. Tôi vẫn nhớ đến Marcelo, không biết anh có còn ở Paris? Kỷ niệm, chúng thật dai dẳng làm sao.
Từ Paris, tôi bay đến Barcelona một mình. Những công trình kiến trúc của Gaudí là niềm tự hào của thành phố này. Anh bạn Javier đưa tôi đến thăm đài phun nước yêu thích của anh, vòng vèo qua con phố hẹp, nó nằm giữa quảng trường nhỏ, vây quanh bởi trường học, tu viện, hiệu sách cũ, còn trên cao là một khoảng trời xanh bất tận. Giờ đây, nó cũng là đài phun nước yêu thích của tôi.
Tháng… năm…
Tôi trở lại Châu Âu lần thứ ba. Bây giờ là đầu mùa xuân, những cây anh đào nở rộ khắp các công viên trong Wiesbaden – thành phố miền Tây Nam nước Đức. Tôi mong ngóng đến lúc hội ngộ Nikolaus – anh chàng người Đức cao lớn mà tôi gặp trong một viện bảo tàng ở San Francisco một năm trước. Tôi và Nikolaus yêu nhau, sau khi tôi chia tay Marcelo. Với tôi, đó là một cuộc tình đặc biệt bởi chúng tôi cách xa nhau đến cả ngàn dặm. Nikolaus làm việc tại Vienna nên chúng tôi hẹn gặp nhau ở đó. Giống như Jesse và Celine trong “Trước lúc bình minh” (một bộ phim tuyệt đẹp về tuổi trẻ, tình yêu và sợi dây kết nối kỳ lạ giữa con người), chúng tôi tay trong tay thong dong đi dọc những con phố của Vienna – thành phố của âm nhạc và tình yêu này đã khắc vào ký ức những điều mà tôi không bao giờ quên.
Nikolaus ở lại Vienna. Tôi một mình mua vé tàu đi dọc nước Áo, rồi sang miền Bắc nước Ý. Tôi đến Milan, Padua, Verona – nơi tôi có thể thấy những đền thờ La Mã tráng lệ, những kiệt tác kiến trúc và hội họa.
Tháng… năm…
Tôi trở lại Châu Âu vào mùa hè. Tôi dành trọn một tháng ở Lisbon – thành phố của bảy ngọn đồi và những con dốc lát đá, của bánh tart trứng pasteis de nata và những bản nhạc fado sầu muộn. Tôi đã không còn liên lạc với Nikolaus từ cuối năm ngoái. Sợi dây gắn kết chúng tôi đứt gãy vì cuộc sống của cả hai đã nhiều đổi khác. Tôi thấy sự trống rỗng hiện lên trong những viễn cảnh mà chúng tôi từng háo hức vẽ nên, dù tôi vẫn yêu quý anh và hi vọng sẽ gặp lại anh ở đâu đó giữa Châu Âu.
Tôi phải thú nhận mình luôn có một ước mơ thầm kín: tôi mong những gì mà Patrick Modiano viết trong “Từ thăm thẳm lãng quên” sẽ thành hiện thực, rằng vào mùa hè tại những thành phố lớn, những người tình cũ sẽ tình cờ tái ngộ dưới một hàng hiên nào đó. Sẽ là một buổi tối quang đãng và tĩnh lặng, ở quán cà phê của một thời tuổi trẻ.
Chừng nào còn mùa hè thì tôi vẫn còn hy vọng.