Giảm thêm 1%?
Trong khi đó, hồi đầu tháng, Ngân hàng Nhà nước cho biết, lãi suất cho vay 15% sẽ ổn định trong vòng một năm. Điều đó khiến nhiều người nhận định, việc giảm lãi suất sẽ không còn diễn ra hay chí ít không tiếp diễn với xu hướng mạnh mẽ như thời gian qua. Tuy nhiên, khi có CPI tháng 7 với chỉ số âm tháng thứ 2 liên tiếp đã khiến cho nhiều dự đoán phải đổi hướng khi nguy cơ giảm phát đã lộ rõ. Và việc giảm lãi suất sẽ có cơ sở diễn ra và diễn ra sớm hơn dự kiến.
Trao đổi về xu hướng giảm lãi suất thời gian tới, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia ngân hàng, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia dự báo, năm nay lạm phát sẽ ở mức 7-8%, với cách tính thực tế thì lãi suất huy động từ nay đến cuối năm sẽ chỉ giảm thêm 1% ở mức 8%/năm.
Ông Nghĩa tính toán, lãi suất USD 2%, lạm phát 6 tháng còn lại có thể dao động 4%, thêm các chi phí rủi ro và niềm tin vào USD khoảng 2%, trong khi lãi suất tiền gửi VND 9%. Dư địa chỉ còn lại 1%, nếu lãi suất huy động VND xuống thấp quá, người dân sẽ đổ xô đi mua USD, tạo nên bất ổn tỉ giá. Đối với lãi suất cho vay, thông thường dư địa chênh lệch khoảng 3%, nếu có giảm thì từ nay đến cuối năm quanh mốc 12%/năm
Vướng nợ xấu, lo lạm phát
Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, lạm phát hiện đã thấp xa so với chỉ tiêu đặt ra, dự báo cả năm chỉ từ 4,6% đến 6%. Ông Nghĩa cho biết, thời gian dài vừa qua, lãi suất nội tệ cao hơn nhiều so với lãi suất ngoại tệ. Lãi suất ngoại tệ duy trì kéo dài ở mức 2%/năm, trong khi lãi suất nội tệ rất cao, một thời gian dài ở mức 2 con số. Sự chênh lệch rất lớn này khiến DN, dân cư và ngân hàng thương mại ồ ạt bán ngoại tệ chuyển sang nội tệ. Nhiều ngân hàng thương mại đang duy trì trạng thái ngoại tệ âm.
Khi lãi suất huy động hạ xuống 9%/năm, lãi suất ngoại tệ vẫn là 2%. Nếu lạm phát cả năm 5% thì dư địa giảm lãi suất là 3%. Nếu tính lạm phát ở mức 6% thì dư địa giảm lãi suất là 2%. Tuy nhiên, dư địa này khá mong manh, vì vậy phải thận trọng. Nếu giảm lãi suất xuống 8%/năm, rất có thể người dân và các ngân hàng sẽ chuyển sang trạng thái ngược lại là chối bỏ nội tệ, như vậy tỷ giá sẽ thay đổi.
Diễn biến mới trên thị trường hiện nay là sự chuyển dịch từ ngoại tệ sang nội tệ đã dừng lại, do đó, phải rất thận trọng trong điều hành giảm lãi suất những tháng cuối năm.
Trong khi đó, ông Võ Trí Thành, Viện phó Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, thì tốc độ nợ xấu vẫn tăng nhanh. Nền kinh tế có thể còn rơi vào giảm phát nếu tình trạng trì trệ và “cục máu đông” nợ xấu chưa được giải quyết. Để khơi thông dòng vốn, theo ông Thành nên rốt ráo xử lý nợ xấu và giải quyết vấn đề niềm tin của thị trường vì nó đang gặp vấn đề.
Còn TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, nền kinh tế Việt Nam hiện đang gặp phải “căn bệnh” khó trị đó là suy kiệt tín dụng. Người có tiền không dám cho vay, hoặc không cho vay được, còn người cần tiền thì không vay được, cả 2 đứng nhìn qua hàng rào sắt, không thể vượt qua.
Nguyên nhân chính không phải là do suy giảm tổng cầu, mà do nợ xấu tại các ngân hàng lớn và tăng nhanh. DN cạn kiệt vốn ngày càng nhiều, tuy cố duy trì nhưng vẫn cạn kiệt, số lượng phá sản ngày càng nhiều, sản xuất giảm, đời sống ngày càng khó khăn.
Hiện nay nợ xấu quá lớn, DN và ngân hàng không có khả năng tự xử lý, “Cục máu đông quá lớn đang làm tắc nghẽn hệ tuần hoàn”, cần có sự can thiệp của Chính phủ. Nợ xấu hiện 8-10%, nếu để ngân hàng và DN tự xử lý chỉ đạt được 1,1-2% mỗi năm, như vậy phải mất 5 năm mới xong. Trong thời gian này, ngân hàng sẽ chơi bài không để cho dư nợ tín dụng mới tăng hoặc kiểm soát chặt và duy trì lãi suất cao, đẻ bù đắp nợ xấu, như vậy nền kinh tế sẽ phải chịu 5 năm tăng trưởng thấp.
“Liệu chúng ta có chờ đợi được 5 năm tăng trưởng rất thấp, lạm phát thấp, DN suy kiệt, đình đốn để rồi sau đó phục hồi không?”, ông Nghĩa đặt câu hỏi.
Việc xử lý nợ xấu càng nhanh càng tốt. Được biết, ngày 20/8 tới, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước sẽ báo cáo với Ủy ban thường vụ Quốc hội về vấn đề này. Tuy nhiên, Tiến sĩ Thành ước tính, để xử lý nợ xấu cũng phải trên dưới 3 năm. Nhưng nếu không làm, dòng tín dụng của hệ thống sẽ tiếp tục ách tắc.
Nếu tín dụng từ nay đến cuối năm mỗi tháng tăng 1,5% (tương đương 6 tháng là 9%) thì tăng trưởng GDP của cả năm 2012 từ 5,3-5,4%. Với mức này, lạm phát 5 tháng sau đó từ 0,5-1% mỗi tháng. Nếu tín dụng là 2%/tháng thì 6 tháng, cuối năm sẽ là 12%, GDP cả năm 2012 có thể đạt 5,5-5,6%. Tuy nhiên, như vậy nguy cơ lạm phát sẽ quay trở lại 5 tháng sau đó.
Tăng trưởng tín dụng có thể là 17% nhưng nếu chia đều cho 12 tháng thì lạm phát sẽ rất thấp. Ngược lại, nếu tăng trưởng tín dụng chỉ là 12% nhưng lại chỉ trong 6 tháng thì vô cùng nguy hiểm, nền kinh tế không hấp thụ hết lượng tiền mặt dư thừa và như vậy lạm phát sẽ trở lại.
Theo Vietnamnet