Làm thủ tục nộp thuế tại Cục thuế Hai Bà Trưng (Hà Nội) – Ảnh: Ngọc Thắng
Lần đầu tiên báo cáo chuyên đề do Ủy ban Kinh tế Quốc hội chủ trì đã thẳng thắn chỉ rõ, thuế tại VN quá cao đang làm ảnh hưởng đến tích lũy của doanh nghiệp (DN) và tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt là thuế TNCN hiện đang “đánh” vào hơn 15 triệu đối tượng.
Thu nhập thấp, bị đánh thuế cao
Báo cáo khẳng định, khoản thu nhập chịu thuế của người dân VN thấp hơn nhưng lại chịu thuế cao hơn so với Trung Quốc (TQ) và Thái Lan. Cụ thể, với thu nhập 3.451 – 5.175 USD/năm, người VN đã bị áp thuế suất 10%, trong khi cũng với mức thuế suất này con số tương ứng ở Thái Lan và TQ lần lượt là 4.931 – 16.434 USD/năm và 3.801 – 9.500 USD/năm.
Một trong những mục tiêu quan trọng của luật thuế là chỉ điều tiết một phần thu nhập của cá nhân có thu nhập trên mức trung bình của xã hội, phần thu nhập còn lại đảm bảo nâng cao đời sống. Tuy nhiên, kể từ khi bắt đầu có hiệu lực 1.1.2009 đến nay, thuế TNCN đã thực sự trở thành gánh nặng của người dân. Thạc sĩ Hà Thị Dương Lan – giảng viên Trường bồi dưỡng cán bộ tài chính đã chứng minh bằng một nghiên cứu gần đây rằng, số thu từ thuế TNCN đóng cho ngân sách năm 2009 là 14.316 tỉ đồng, bằng 110% so với năm 2008, bằng 3,4% tổng số thu ngân sách nhà nước (NSNN). Bước sang 2010 đã đạt 26.282 tỉ đồng, bằng 183,6% so với 2009, chiếm khoảng 4,7% tổng thu NSNN. Số thu năm 2011 khoảng 37.160 tỉ đồng, bằng 141,38% năm 2010, khoảng 5,5% tổng thu NSNN. Nếu so với GDP, năm 2009 tỷ lệ huy động bằng 0,87%/GDP; năm 2010 là 1,37%/GDP; năm 2011 khoảng 2,03%/GDP.
Số thu từ thuế TNCN tăng nhanh cả về số tuyệt đối, tỷ trọng trên tổng thu, nguyên nhân theo thạc sĩ Lan là do số đối tượng nộp thuế tăng đều đặn từng năm theo từng đợt tăng lương từ 450.000 đồng/tháng năm 2009 lên 830.000 đồng/tháng năm 2011. Ngoài ra, do thu nhập của các hộ gia đình, cá nhân kinh doanh tăng khi chỉ số CPI tăng (năm 2008: 19,9%; năm 2009: 6,52%; năm 2010: 11,75%; năm 2011: 18,13%), nhưng ngược lại mức giảm gia cảnh từ năm 2007 đến nay lại không hề nhúc nhích. Chính vì vậy, sự bao biện trong suốt thời gian qua của cơ quan quản lý trở nên vô nghĩa và chính cơ quan này cũng phải thừa nhận sự lạc hậu của luật để tăng mức giảm trừ khi sửa.
Nhìn lại mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế 4 triệu đồng/người/tháng bằng 1,7 lần thu nhập bình quân GDP đầu người trong một tháng của VN năm 2011 thấy cao hơn nhiều so với TQ (6.404 USD/năm – bằng 1,23 lần GDP bình quân đầu người 2011); tương tự Indonesia 1.830 USD/năm (khoảng 0,527 lần); Malaysia khoảng 2.687 USD/năm (0,312 lần)… Thế nhưng, mức giảm trừ gia cảnh của VN thực tế lại rất thấp vì thu nhập GDP bình quân đầu người của VN chỉ bằng 0,262 lần TQ, bằng 0,257 lần Thái Lan, bằng 0,158 lần Malaysia, bằng 0,392 lần Indonesia và 0,604 lần Philippines.
“Người nộp thuế không phàn nàn gì”?
Ông Đỗ Hoàng Anh Tuấn – Thứ trưởng Bộ Tài chính cho biết, qua thực hiện miễn thuế TNCN bậc 1 tháng đầu tiên (tháng 7.2012) đối tượng hưởng khá lớn, đợt miễn giảm này khoảng 3.600 tỉ đồng, cơ bản người nộp thuế không phàn nàn gì.
Tuy nhiên, theo một tiến sĩ chuyên ngành tài chính, con số trên quá nhỏ và nếu Bộ Tài chính đến hỏi những người đang chịu thuế suất bậc 2 sẽ biết có sự phàn nàn hay không. Ông dẫn số liệu thống kê, số người nộp thuế từ thu nhập từ lương, tiền công ở bậc 1 chiếm tỷ trọng lớn trong số người phải nộp thuế (năm 2009 khoảng 77,3%, năm 2010 khoảng 73,3%, năm 2011 khoảng 77%), nhưng số thuế nộp không lớn so với tổng thuế thu từ lương, tiền công (năm 2009 khoảng 6,9%, năm 2010 khoảng 7%, năm 2011 gần 10%). Số người nộp thuế từ thu nhập từ lương, tiền công ở bậc 2 trở lên không lớn (năm 2009 là 22,7%, năm 2010 là 26,7%, năm 2010 là 23%), nhưng số thuế nộp chiếm tỷ trọng lớn (năm 2009 là 93,1%, năm 2010 là 93%, năm 2011 khoảng 90%). “Đó là lý do vì sao, cứ khi nào khó khăn nhà quản lý chỉ đưa ra mỗi giải pháp giảm thuế bậc 1”, tiến sĩ này nói.
Ngay cả với 7 mức thuế suất từ 5% đến 35% được cho là vừa cao vừa dày, thì vừa qua khi trình dự thảo sửa đổi luật, Bộ Tài chính cũng không hề “đả động” gì đến, với lý do đã tăng mức giảm trừ gia cảnh. Trong khi đó, theo thạc sĩ Lan, việc sửa đổi biểu thuế lũy tiến từng phần (điều 22 luật Thuế TNCN) để khuyến khích người có trình độ kỹ thuật cao, năng lực điều hành giỏi ra sức lao động là rất cần thiết.
Bộ Tài chính đang trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự thảo luật Thuế TNCN với việc nâng mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp từ 4 triệu lên 9 triệu đồng, người phụ thuộc từ 1,6 triệu lên 3,2 triệu đồng. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia khẳng định, dự thảo luật lại sẽ nhanh chóng lạc hậu và bị dư luận phản đối do mức trên sẽ không còn phù hợp cho các giai đoạn tiếp theo sau 2015 khi thu nhập người dân đã khá hơn, mức lương tối thiểu được điều chỉnh. Kể cả khi dự thảo luật bổ sung quy định “mở” – tức giá cả thị trường biến động trên 20% thì Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh cho phù hợp với sự biến động của giá cả, mức lạm phát giai đoạn tới chỉ 15% cũng đủ cho người dân khó sống, chứ không nói 20%.
Cần có thêm ưu đãi cho người nộp thuế khi về hưu
Thu thuế cao nhưng VN không có các chính sách thực sự ưu đãi cho cá nhân người nộp khi về hưu, về già. Trong khi đó, các quốc gia khác thu thấp hơn, ưu đãi quan tâm nhiều hơn. Cụ thể:
Công dân Singapore có thu nhập hằng tháng trên 50 SGD sẽ đóng góp một phần thu nhập vào Quỹ tiết kiệm trung ương (CPF). Tỷ lệ đóng góp tăng theo mức lương và giảm theo độ tuổi. Thuế thu nhập được tính trên lương sau khi đã trừ phần đóng góp cho CPF và một số khoản khác. Tối thiểu 139.000 SGD một người cần được để dành cho mục đích trợ cấp trong vòng 20 năm bắt đầu từ năm 65 tuổi. Nhiều hơn số đó, công dân trên 55 tuổi có thể tự do rút phần dư nếu muốn. Ngoài ra, CPF còn có các gói trợ cấp cả đời cho người dân lựa chọn.
Công dân Hồng Kông từ 18 đến 65 tuổi phải đóng góp 10% (5% nếu lương hằng tháng dưới 6.500 HKD) thu nhập hằng tháng cho Quỹ tiết kiệm bắt buộc (MPF). Không quá 12.000 HKD mỗi năm sẽ được hoàn thuế cho người dân đã có tham gia đóng góp các khoản bắt buộc hằng tháng, trong đó có MPF. Đến tuổi 65, hoặc 60 nếu chọn nghỉ hưu sớm, người dân có thể chọn rút toàn bộ khoản tiết kiệm trên.
Quỹ hưu trí ở Trung Quốc dựa trên hệ thống “3 cột đỡ”: cột 0 tương đương với các khoản bảo hiểm xã hội, cột 1 tương đương với trợ cấp hưu trí căn bản và cột 2 tương đương với phụ cấp hưu trí. Tùy theo tỉnh và thành phố, từ 15 đến 17% lương hằng tháng sẽ nộp vào cột 1, với mức đóng góp tối thiểu là 60% và tối đa là 300% lương trung bình của tỉnh hay thành phố đó. 11% nữa sẽ được nộp vào cột 2, đưa tổng tỷ lệ đóng góp hưu trí tại TQ lên 28%, vào hàng cao nhất thế giới. Các đóng góp trên đều được miễn thuế. Công dân lao động trên 15 năm sẽ được nhận trợ cấp hưu trí căn bản hằng tháng từ cột 1 tương đương 20% lương trung bình của tỉnh và thành phố nơi họ làm việc cộng với một phần phụ cấp bằng tổng số tiền họ đóng góp cho quỹ tiết kiệm chia 120. Công dân lao động chưa đến 15 năm không được nhận trợ cấp từ cột 1 và chỉ nhận lại toàn bộ số tiền mà họ đã đóng góp.
Theo Thanh Niên